Tội hiếp dâm hiện nay đang được quy định tại Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015, là hành vi xâm hại nghiêm trọng đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự của con người. Đây là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng trong nhóm các tội xâm phạm tình dục để lại hậu quả nặng nề cho nạn nhân và gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội.
Mục lục bài viết
- 1 1. Tội hiếp dâm được hiểu như thế nào?
- 2 2. Cấu thành tội phạm của Tội hiếp dâm theo Bộ luật Hình sự năm 2015:
- 3 3. Hình phạt của Tội hiếp dâm theo Bộ luật Hình sự 2015:
- 4 4. Tình tiết tăng nặng của Tội hiếp dâm theo Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015:
- 5 5. Phân biệt Tội hiếp dâm với các tội danh khác:
- 6 6. Bản án điển hình về Tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015:
1. Tội hiếp dâm được hiểu như thế nào?
Tội hiếp dâm được hiểu là hành vi của một người dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lợi dụng tình trạng không thể tự vệ hoặc thủ đoạn khác để thực hiện hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân. Đây là một trong những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015, xâm phạm trực tiếp đến quyền tự do tình dục, nhân phẩm và danh dự của con người.
Bản chất của tội hiếp dâm là sự cưỡng bức tình dục, tức là người phạm tội không dựa trên sự tự nguyện của nạn nhân. Khác với các quan hệ tình dục hợp pháp và tự nguyện, hành vi hiếp dâm đặt nạn nhân vào tình thế buộc phải chịu đựng hoặc không thể chống cự. Chính yếu tố “trái ý muốn” là ranh giới pháp lý quan trọng phân biệt hành vi hiếp dâm với quan hệ tình dục hợp pháp khác.
Hành vi hiếp dâm thường xuất phát từ động cơ tình dục lệch lạc và thiếu kiểm soát. Hậu quả của nó không chỉ dừng lại ở việc gây tổn thương về thể chất mà còn để lại tổn hại nghiêm trọng về tâm lý, tinh thần, làm suy giảm nhân phẩm con người và ảnh hưởng tiêu cực đến trật tự an toàn xã hội.
Như vậy: Tội hiếp dâm có thể được nhìn nhận như sự xâm hại “trắng trợn” đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục của con người, thể hiện bản chất bạo lực, cưỡng bức và trái ý muốn. Hiếp dâm cũng là hành vi đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, vì vậy pháp luật hình sự Việt Nam quy định mức xử phạt rất nghiêm khắc đối với loại tội phạm này.
2. Cấu thành tội phạm của Tội hiếp dâm theo Bộ luật Hình sự năm 2015:
Khi định Tội hiếp dâm theo Điều 141 Bộ luật Hình sự năm 2015 cần lưu ý về những yếu tố cấu thành tội phạm của tội danh này.
2.1. Cơ sở pháp lý của Tội hiếp dâm:
Tội hiếp dâm hiện nay đang được quy định tại Điều 141 Bộ luật Hình sự năm 2015. Cụ thể như sau:
“1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Có tổ chức;
b) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
c) Nhiều người hiếp một người;
d) Phạm tội 02 lần trở lên;
đ) Đối với 02 người trở lên;
e) Có tính chất loạn luân;
g) Làm nạn nhân có thai;
h) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
i) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
4. Phạm tội đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các khoản đó.
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2.2. Khách thể của Tội hiếp dâm:
Điều 20 Hiến pháp 2013 quy định: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm. Vì vậy, quyền bất khả xâm phạm về tình dục là quyền được bảo vệ và ghi nhận bởi pháp luật, bất cứ ai có hành vi xâm phạm đến quyền này đều bị xử lý nghiêm khắc.
Khoản 1 Điều 141 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: Hiếp dâm là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc bằng thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái ý muốn của nạn nhân.
Như vậy khách thể của Tội hiếp dâm là:
- Quyền bất khả xâm phạm về tình dục của con người (bao gồm cả nam giới và nữ giới);
- Có quan điểm có rằng: Đối tượng của Tội hiếp dâm chỉ là nữ giới. Tuy nhiên đây là quan điểm sai. Nam giới cũng có thể là nạn nhân của tội hiếp dâm. Ngay cả khi nam giới cùng giới giao cấu với nhau cũng có thể bị coi là tội phạm hiếp dâm nếu thỏa mãn đầy đủ các cấu thành tội phạm của loại tội danh này.
2.3. Mặt khách quan của Tội hiếp dâm:
Mặt khách quan của Tội hiếp dâm theo Điều 141 Bộ luật Hình sự năm 2015 được biểu hiện những hành vi sau đây:
- Dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực nhằm mục đích làm cho nạn nhân không còn khả năng chống cự, từ đó thực hiện hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân;
- Lợi dụng tình trạng không thể tự vệ (có hạn chế về thể chất hoặc tinh thần, không có khả năng chống lại hành vi giao cấu của người phạm tội) của nạn nhân để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của họ;
- Sử dụng thủ đoạn khác để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân. Thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác như quan hệ qua hậu môn hoặc bằng miệng mà nạn nhân không đồng ý.
Đồng thời, Điều 3 Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP giải thích cụ thể về hành vi cấu thành Tội hiếp dâm theo Điều 141 Bộ luật Hình sự năm 2015 như sau:
Khoản 1 Điều 3 Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP quy định: Giao cấu là hành vi xâm nhập của bộ phận sinh dục nam vào bộ phận sinh dục nữ, với bất kỳ mức độ xâm nhập nào.
Khoản 2 Điều 3 Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP quy định: Hành vi quan hệ tình dục khác là hành vi của những người cùng giới tính hay khác giới tính sử dụng bộ phận sinh dục nam, bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi…), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, miệng, hậu môn của người khác với bất kỳ mức độ xâm nhập nào, bao gồm một trong các hành vi sau đây:
- Đưa bộ phận sinh dục nam xâm nhập vào miệng, hậu môn của người khác;
- Dùng bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi…), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, hậu môn của người khác.
Khoản 7 Điều 3 Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP quy định: Lợi dụng tình trạng không thể tự vệ từ phía nạn nhân là việc người phạm tội lợi dụng tình trạng người bị hại lâm vào một trong những hoàn cảnh sau đây để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác:
- Ngưòi bị hại không thể chống cự được (ví dụ: người bị hại bị tai nạn, bị ngất, bị trói, bị khuyết tật… dẫn đến không thể chống cự được);
- Người bị hại bị hạn chế hoặc bị mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi (ví dụ: người bị hại bị say rượu, bia, thuốc ngủ, thuốc gây mê, ma túy, thuốc an thần, thuốc kích thích, các chất kích thích khác, bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh khác… dẫn đến hạn chế hoặc mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi).
2.4. Chủ thể của Tội hiếp dâm:
Theo Điều 12 của Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: Người từ đủ 14 cho đến dưới 16 tuổi sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về những tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng được quy định tại Khoản 2, 3, 4 Điều 141 Bộ luật Hình sự. Người đủ 16 tuổi trở lên vi phạm vào quy định tại Khoản 1 Điều 141 Bộ luật Hình sự sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Theo đó, Tội hiếp dâm có thể do bất kỳ cá nhân nào gây ra (bao gồm công dân Việt Nam, người nước ngoài hoặc người không quốc tịch) trong độ tuổi từ đủ 14 tuổi trở lên và có năng lực chịu trách nhiệm hình sự đầy đủ (có khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình).
2.5. Mặt chủ quan của Tội hiếp dâm:
Người phạm tội hiếp dâm thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý (cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp).
- Người biết hành động của mình gây nguy hiểm cho xã hội, nhận thức được hậu quả và có ý định để hậu quả đó xảy ra;
- Người ý thức được tính nguy hiểm của hành vi của mình đối với xã hội, dự đoán hậu quả có thể xảy ra và dù không muốn, vẫn thờ ơ để hậu quả xảy ra.
Động cơ được hiểu là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội. Đối với tội hiếp dâm, động cơ thường xuất phát từ nhu cầu sinh lý, không tự chủ, kiềm chế được bản thân, nhận thức lệch chuẩn về giá trị chuẩn mực xã hội từ đó hình thành động cơ thúc đẩy hành vi giao cấu trái ý muốn nạn nhân.
Tuy nhiên, dấu hiệu động cơ và mục đích không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của tội hiếp dâm. Việc làm sáng tỏ động cơ và mục đích phạm tội có ý nghĩa trong xác định tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi và đánh giá mức độ lỗi để quyết định hình phạt phù hợp.
3. Hình phạt của Tội hiếp dâm theo Bộ luật Hình sự 2015:
Theo quy định tại Điều 141 Bộ luật hình sự năm 2015 thì tội danh này có 04 khung hình phạt tù và 01 hình phạt bổ sung đó là:
Khung 1: Quy định hình phạt tù từ 2 đến 7 năm tù đối với trường hợp người phạm tội không có tình tiết định khung tăng nặng.
Khung 2: Quy định hình phạt tù từ 7 đến 15 năm tù áp dụng đối với trường hợp người phạm tội có một trong các trường hợp sau đây:
- Có tổ chức;
- Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
- Nhiều người hiếp một người;
- Phạm tội 02 lần trở lên;
- Đối với 02 người trở lên;
- Có tính chất loạn luân;
- Làm nạn nhân có thai;
- Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
- Tái phạm nguy hiểm.
Khung 3: Quy định hình phạt tù từ 12 đến 20 năm tù hoặc chung thân áp dụng đối với trường hợp người phạm tội có một trong các trường hợp sau đây:
- Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
- Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
- Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
Khung 4: Quy định hình phạt tù từ 5 đến 10 năm tù áp dụng với trường hợp phạm tội đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Tình tiết tăng nặng của Tội hiếp dâm theo Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015:
Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015 có 02 khung hình phạt tăng nặng với các tình tiết định khung tăng nặng như sau:
4.1. Tình tiết định khung tăng nặng theo khoản 2 Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015:
a. Có tổ chức (tức là có yếu tố đồng phạm):
- Dấu hiệu định khung này được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015.
- Trong trường hợp này, tất cả những người đồng phạm đều bị áp dụng tình tiết tăng nặng định khung này.
- Tuy nhiên, trách nhiệm hình sự đối với mỗi người lại phụ thuộc vào vai trò và hành vi của họ trong vụ án (giúp sức, tổ chức hay xúi giục…).
b. Phạm tội đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh:
- Dấu hiệu định khung này được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015.
- Người phạm tội và nạn nhân có quan hệ đặc biệt với nhau, trong đó người phạm tội là:
- Người có trách nhiệm chăm sóc (người được cơ quan, tổ chức xã hội hoặc họ hàng thân thích… giao trách nhiệm chăm sóc nạn nhân về ăn uống, sinh hoạt, vệ sinh cá nhân):
- Người giáo dục (thầy giáo, người làm công tác giáo dục);
- Người chữa bệnh cho nạn nhân (bác sĩ, y tá điều trị cho nạn nhân).
- Trách nhiệm này phát sinh do những cơ sở pháp lý khác nhau. Chỉ khi nào người phạm tội đã lợi dụng việc chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh để hiếp dâm người được chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh thì mới thuộc trường hợp phạm tội này.
c. Nhiều người hiếp một người:
- Dấu hiệu định khung này được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015.
- Đây là trường hợp đồng phạm hiếp dâm trong đó có nhiều người có hành vi giao cấu trái ý muốn với cùng một nạn nhân.
- Nhiều người hiếp một người khác và hiếp dâm có tổ chức tuy đều là đồng phạm nhưng khác nhau ở hỗ: Một trường hợp đòi hỏi là đồng phạm có tổ chức; còn một trường hợp đòi hỏi phải có nhiều người cùng là người thực hiện hành vi giao cấu.
- Nếu phạm tội có tổ chức mà lại có từ 02 người trở lên giao cấu với nạn nhân thì những người giao cấu với nạn nhân phạm tội với 02 tình tiết định khung tăng nặng là “hiếp dâm có tổ chức” và “nhiều người hiếp một người”.
d. Phạm tội 02 lần trở lên:
- Phạm tội nhiều lần là trường hợp thực hiện tội phạm mà trước đó người phạm tội đã phạm tội này ít nhất một lần và chưa bị xét xử.
- Dấu hiệu định khung này được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015.
- So với Bộ luật Hình sự năm 1999 trước đây, các nhà làm luật đã có cách diễn đạt và sử dụng từ ngữ một cách định lượng và cụ thể hơn, đó là thay thế cụm từ “nhiều lần” bằng cụm từ “hai lần trở lên”.
e. Phạm tội đối với 02 người trở lên:
- Dấu hiệu định khung này được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015.
- Đây là trường hợp người phạm tội đã hiếp dâm từ 02 nạn nhân trở lên và những lần phạm tội đó đều chưa bị đưa ra xét xử theo quy định của pháp luật.
f. Có tính chất loạn luân:
- Dấu hiệu định khung này được quy định tại điểm e khoản 2 Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015.
- Loạn luân là trường hợp giữa người phạm tội và nạn nhân có quan hệ:
- Cùng dòng máu về trực hệ (bố mẹ với con cái, ông bà với các cháu);
- Giữa anh chị em cùng cha mẹ;
- Hoặc anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha
g. Làm nạn nhân có thai:
- Dấu hiệu định khung này được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015.
- Tình tiết này đòi hỏi cái thai của nạn nhân là kết quả của việc giao cấu trái với ý muốn giữa nạn nhân và người phạm tội, tức là có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi giao cấu và hậu quả nạn nhân có thai.
h. Gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%:
- Dấu hiệu định khung này được quy định tại điểm h khoản 2 Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015.
- Là tình tiết chỉ hậu quả của hành vi phạm tội đối với sức khỏe con người, được xác định bằng kết quả giám định pháp y thương tích.
- Mức độ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% được coi là thương tích nặng nhưng chưa đến mức đặc biệt nghiêm trọng (từ 61% trở lên).
f. Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%:
- Dấu hiệu định khung này được quy định tại điểm i khoản 2 Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015.
- Là tình tiết phản ánh hậu quả tổn thương về mặt tâm thần, tâm lý mà hành vi phạm tội gây ra cho nạn nhân. Nạn nhân bị rơi vào trạng thái bệnh lý như loạn thần, rối loạn cảm xúc, rối loạn hành vi, trầm cảm nặng, rối loạn stress sau sang chấn…
- Mức độ ảnh hưởng được xác định qua giám định pháp y tâm thần. Tỷ lệ tổn hại được xác định trong khoảng từ 11% đến 45% tức là đã có hậu quả đáng kể nhưng chưa đến mức rất nghiêm trọng (từ 46% trở lên).
k. Tái phạm nguy hiểm:
- Dấu hiệu định khung này được quy định tại điểm k khoản 2 Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015.
- Tình tiết này được thực hiện theo khoản 2 Điều 53 Bộ luật Hình sự 2015. Theo đó, những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
- Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
- Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.
4.2. Tình tiết định khung tăng nặng theo khoản 2 Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015:
a. Gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên:
- Dấu hiệu định khung này được quy định tại điểm a khoản 3 Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015.
- Đây là ngưỡng thương tích cao nhất trong Bộ luật Hình sự 2015 thể hiện mức độ nguy hiểm đặc biệt lớn của hành vi phạm tội. Vì thế khi hậu quả đạt từ 61% trở lên thì tội phạm sẽ bị xử lý ở khung tăng nặng.
b. Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội:
- Dấu hiệu định khung này được quy định tại điểm b khoản 3 Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015.
- Đây là trường hợp người phạm tội biết mình nhiễm HIV mà vẫn có hành vi giao cấu trái ý muốn nạn nhân làm cho tính chất và mức độ của hành vi hiếp dâm nguy hiểm hơn nhiều so với trường hợp hiếp dâm bình thường.
c. Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên:
- Dấu hiệu định khung này được quy định tại điểm c khoản 3 Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015.
- Được hiểu là tình trạng bệnh lý về tâm thần do hành vi phạm tội gây ra (ví dụ: loạn thần, trầm cảm nặng, rối loạn stress sau sang chấn, hoang tưởng…) từ đó làm suy giảm khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của nạn nhân.
d. Làm nạn nhân chết hoặc tự sát:
- Dấu hiệu định khung này được quy định tại điểm d khoản 3 Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015.
- Trường hợp hiếp dâm làm nạn nhân chết là trường hợp hiếp dâm gây ra hậu quả nạn nhân chết và lỗi của người phạm tội đối với hậu quả này là lỗi vô ý.
- Nếu người phạm tội gây ra hậu quả chết người với lỗi cố ý thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về cả tội giết người và hiếp dâm theo Điều 123 và Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015.
5. Phân biệt Tội hiếp dâm với các tội danh khác:
5.1. Phân biệt Tội hiếp dâm và Tội cưỡng dâm:
Tiêu chí | Tội hiếp dâm | Tội cưỡng dâm | |
Căn cứ pháp lý | Điều 141 Bộ luật hình sự năm 2015. | Điều 143 Bộ luật hình sự năm 2015. | |
Khái niệm | Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân. | Người nào dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác. | |
Chủ thể | Người phạm tội | Có thể là nam hoặc nữ từ đủ 14 tuổi trở lên cố ý thực hiện hành vi phạm tội. | Có thể là nam hoặc nữ từ đủ 14 tuổi trở lên và có mối quan hệ lệ thuộc với người bị hại hoặc có quan hệ nhất định trong việc giúp đỡ người bị hại thoát khỏi tình trạng quẫn bách cố ý thực hiện. |
Nạn nhân |
| Bất kì ai từ đủ 16 tuổi trở lên thuộc một trong hai trường hợp sau đây:
Việc giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân; đồng thời giữa người bị hại và người phạm tội có một mối quan hệ nhất định, nạn nhân bị phục thuộc và miễn cưỡng phải quan hệ. | |
Mặt khách quan | Thiên về dùng vũ lực, bạo lực để làm tê liệt ý chí của nạn nhân. Nạn nhân bị ép buộc hoàn toàn cả về ý chí cũng như vật chất, không thể kháng cự được. Đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc và lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác nhằm giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục. | Thiên về nạn nhân bị ép buộc về ý chí hơn là dùng vũ lực. Nghĩa là trên thực tế, trong tình cảnh bị cưỡng dâm, nạn nhân hoàn toàn có thể chống trả bằng vũ lực nhưng do bị ép buộc về tinh thần hoặc vật chất… nên họ phải miễn cưỡng giao cấu. Nạn nhân vẫn còn khả năng lựa chọn cách khác thay vì thực hiện giao cấu (báo với cơ quan chức năng…). Đe dọa có sự gián đoạn về mặt thời gian và dùng mọi thủ đoạn khiến nạn nhân phải miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục. | |
Tình trạng của nạn nhân | Người phạm tội có thể lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân để giao cấu. Tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân có thể là nạn nhân bị bệnh động kinh, bệnh tâm thần hoặc người thứ ba gây ra; hoặc do người phạm tội tạo ra (người phạm tội cho nạn nhân uống thuốc mê) hoặc do các nguyên nhân khách quan khác (nạn nhân bị say xỉn, bị bất tỉnh, bị ốm đau bệnh tật mà sức khoẻ yếu…). | Tình trạng quẫn bách của người bị hại (nạn nhân) trong vụ án cưỡng dâm là người bị hại vẫn còn nhận thức được, còn khả năng tự vệ nhưng vì sự lệ thuộc hoặc đang ở trong tình trạng quẫn bách không còn con đường nào khác mà buộc phải giao cấu. Người đang ở trong tình trạng quẫn bách là trường hợp người đang ở trong tình trạng hết sức khó khăn, tự mình không thể hoặc khó có thể khắc phục được, mà đòi hỏi phải có sự hỗ trợ của người khác (như trường hợp người thân trong gia đình bị mắc bệnh hiểm nghèo khi hoàn cảnh lại đang túng thiếu nghiêm trọng…) | |
Hình phạt | Thấp nhất là 02 năm tù và cao nhất là tù chung thân. | Thấp nhất là 01 năm tù và cao nhất là 18 năm tù. |
5.2. Phân biệt Tội hiếp dâm và Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi:
Tiêu chí | Tội hiếp dâm | Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi |
Căn cứ pháp lý | Điều 141 Bộ luật hình sự năm 2015. | Điều 146 Bộ luật hình sự năm 2015. |
Khái niệm | Hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lợi dụng tình trạng không thể tự vệ hoặc thủ đoạn khác để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái ý muốn của nạn nhân. | Hành vi có tính chất tình dục nhưng không nhằm mục đích giao cấu hoặc quan hệ tình dục khác, mà nhằm thỏa mãn dục vọng cá nhân, đối tượng tác động là người dưới 16 tuổi. |
Khách thể bị xâm hại | Quyền bất khả xâm phạm về tình dục, danh dự và nhân phẩm của con người (nạn nhân có thể là nam hoặc nữ). | Quyền được bảo vệ về nhân cách, danh dự, nhân phẩm và sự phát triển lành mạnh về tình dục của người dưới 16 tuổi. |
Đối tượng tác động (nạn nhân) | Người từ đủ 16 tuổi trở lên hoặc người dưới 16 tuổi (nếu có hành vi giao cấu/quan hệ tình dục khác trái ý muốn). Nếu nạn nhân là người dưới 16 tuổi sẽ cấu thành Điều 142 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). | Chỉ áp dụng đối với người dưới 16 tuổi (không phân biệt đồng thuận hay không đồng thuận). |
Hành vi khách quan | Giao cấu trái ý muốn và thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái ý muốn. | Có hành vi dâm ô (sờ mó, kích thích bộ phận sinh dục, hôn, ôm ấp… mang tính chất tình dục). Đồng thời, không bao gồm hành vi giao cấu hoặc quan hệ tình dục khác. |
Tính chất cưỡng bức | Luôn có yếu tố cưỡng ép hoặc trái ý muốn của nạn nhân. | Có thể không cần yếu tố cưỡng ép; chỉ cần có hành vi dâm ô với người dưới 16 tuổi, dù có sự đồng thuận của họ cũng vẫn phạm tội. |
Chủ thể | Người từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự. | Người từ đủ 18 tuổi trở lên (theo Bộ luật Hình sự quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự cho tội này). |
Mức độ xâm hại | Xâm hại trực tiếp đến quyền tự do tình dục (cao nhất vì đã có hành vi giao cấu/quan hệ tình dục khác đối với nạn nhân). | Xâm hại ở mức độ thấp hơn, chưa đến mức giao cấu hoặc quan hệ tình dục khác nhưng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của trẻ. |
Khung hình phạt cơ bản | Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm theo khoản 1 Điều 141 Bộ luật hình sự năm 2015. | Phạt tù từ 06 tháng đến 03 theo khoản 1 Điều 146 Bộ luật hình sự năm 2015. |
Hình phạt | Thấp nhất là 02 năm tù và cao nhất là tù chung thân. | Thấp nhất 06 tháng và cao nhất 12 tháng. |
5.3. Phân biệt Tội hiếp dâm với Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi:
Tiêu chí | Tội hiếp dâm | Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi |
Căn cứ pháp lý | Điều 141 Bộ luật hình sự năm 2015. | Điều 142 Bộ luật hình sự năm 2015. |
Khái niệm | Hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lợi dụng tình trạng không thể tự vệ hoặc thủ đoạn khác để giao cấu hoặc quan hệ tình dục khác trái ý muốn của nạn nhân. | Hành vi giao cấu hoặc quan hệ tình dục khác với người dưới 16 tuổi (dù có sự đồng ý hay không đồng ý của họ). |
Khách thể bị xâm hại | Quyền tự do tình dục, nhân phẩm và danh dự của con người. | Quyền được bảo vệ đặc biệt về tình dục, nhân phẩm, danh dự và sự phát triển lành mạnh của trẻ em – người dưới 16 tuổi. |
Đối tượng tác động (nạn nhân) | Người từ đủ 16 tuổi trở lên (nếu bị cưỡng ép và trái ý muốn). | Người chưa đủ 16 tuổi (không phân biệt có sự đồng thuận hay không). |
Hành vi khách quan | Phải có yếu tố cưỡng ép, đe dọa, lợi dụng tình trạng không thể tự vệ hoặc thủ đoạn khác để giao cấu/quan hệ tình dục khác. | Chỉ cần có hành vi giao cấu/quan hệ tình dục khác với người dưới 16 tuổi, không cần yếu tố cưỡng ép. |
Tính chất trái ý muốn | Nạn nhân không tự nguyện (yếu tố bắt buộc). | Không đặt vấn đề đồng ý hay không vì người dưới 16 tuổi không có năng lực pháp lý đầy đủ để đồng ý. |
Chủ thể phạm tội | Người từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự. | Người từ đủ 18 tuổi trở lên theo Điều 142 Bộ luật hình sự năm 2015. |
Hình phạt | Thấp nhất là 02 năm tù và cao nhất là tù chung thân. | Thấp nhất 07 năm và cao nhất là tử hình. |
6. Bản án điển hình về Tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015:
a. Tên bản án: Bản án số 17/2022/HS-ST ngày 30/06/2022 của Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng.
b. Nội dung vụ án:
Vào tháng 5/2018 không rõ ngày (lần 1), bị cáo Châu Thanh N2 đi đến nhà bà Võ Thị H3 để uống rượu với Phạm Văn T5 (cậu ruột của bị hại), khi N2 và T5 uống hết 01 xị rượu thì hết rượu nên T5 đi mua rượu để uống tiếp.
Lúc này, ở nhà chỉ còn lại bị hại T2 và N2 nên cả hai ngồi nói chuyện, thì N2 hỏi T2 “thương anh không”, T2 nói “thương, thương…”, nói xong T2 đi vào trong buồng, N2 cũng đi theo phía sau, khi vào trong buồng, thì N2 và T2 đứng ôm, hôn nhau được khoảng 03 phút, thì T2 nằm xuống nền nhà với tư thế nằm ngữa, N2 nằm trên người của T2 để thực hiện hành vi giao cấu (T2 và N2 cả hai vẫn còn đang mặc quần, áo) nhưng do dương vật N2 không cương cứng và N2 sợ T5 về phát hiện nên N2 đứng lên đi ra ngoài, cùng lúc này, T5 đi mua rượu về đến. Sau đó, N2 và T5 đi ra cái miễu ngoài xẻo B nhậu tiếp.
Đến khoảng 09 giờ ngày hôm sau (lần 2), N2 đi vác thuê ngọn mía cho người khác, trên đường đi, N2 có đi ngang nhà của bà H3, thấy T2 nên N2 vào ngồi nói chuyện với T2 khoảng 30 phút, N2 hỏi T2 “thương anh không” T2 nói “thương, thương…”, lúc này do nhà không có ai nên N2 dẫn T2 đi vào trong buồng để giao cấu, khi vào trong buồng thì N2 đứng ôm, hôn T2, đồng thời N2 dùng tay đỡ T2 nằm xuống nền nhà, N2 cởi quần T2 xuống đến gần đầu gối, N2 tự kéo dây tia quần của N2 ra, N2 dùng dương vật của mình để xâm nhập vào âm đạo của T2 để thực hiện hành vi giao cấu với T2 khoảng 30 phút nhưng do dương vật của N2 không cương cứng nên bị cáo không tiếp tục giao cấu với bị hại nữa.
Ngày 14/5/2018, bị hại T2 nói sự việc N2 có hành vi “hiếp dâm” T2 cho bà H3 nghe và bà H3 trình báo sự việc tại Công an xã Đ, huyện C.
c. Quyết định của Tòa án:
Các bị cáo Lương Văn T1 và Châu Thanh N2 phạm tội “Hiếp dâm”.
THAM KHẢO THÊM: