Hành vi cố ý gây thương tích cho người khác là hành vi nguy hiểm, gây ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng của người khác. Người có hành vi cố ý gây thương tích, nếu đủ điều kiện sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Mục lục bài viết
1. Phân tích cấu thành tội phạm đối với tội cố ý gây thương tích:
Để cấu thành nên tội cố ý gây thương tích cần đáp ứng đủ các yếu tố sau:
Chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của tội cố ý gây thương tích là cá nhân có năng lực trách nhiệm hình sự và thực hiện hành vi với lỗi cố ý.
Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của cá nhân về tội cố ý gây thương tích là người từ đủ 16 tuổi trở lên và người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ chịu trách nhiệm về tội này khi thuộc tội phạm rất nguy hiểm hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Cá nhân không phải chịu trách nhiệm hình sự trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự, đó là: khi đang thực hiện hành vi phạm tội người này đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi. Khi lâm vào tình trạng này, cần có xác nhận của cơ sở bệnh viện đủ trình độ hoặc kết luận của giám định pháp y đủ thẩm quyền luật định thì mới thuộc trường hợp không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Vậy nên, cá nhân có lỗi cố ý thực hiện hành vi gây thương tích hoặc tổn hại cho người khác có đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và không thuộc trường hợp “tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự” thì sẽ đáp ứng được điều kiện về mặt chủ thể của tội này.
Mặt khách quan của tội phạm:
+ Hành vi khách quan của tội phạm:
Tội cố ý gây thương tích có hành vi khách quan là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Hành vi này được thể hiện trong nhận thức và điều khiển hành vi của người phạm tội để khiến cho người khác bị thương tích hoặc tổn hại về sức khỏe. Vì vậy, nhiều cá nhân cùng thực hiện tội phạm này, những cá nhân đó có một trong các hành vi của người thực hành, người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức đều là hành vi của tội phạm này.
Những hành vi có dấu hiệu của tội phạm tuy nhiên mức độ nguy hiểm gây ra cho xã hội không đáng kể thì không phải tội phạm và sẽ xử lý bằng các biện pháp khác như xử phạt hành chính được với mức xử phạt do Chính phủ quy định.
+ Cách thức thực hiện hành vi phạm tội:
Cần xác định được người phạm tội sử dụng phương tiện, công cụ hay dùng cách thức nào và gây ra thương tích đối với nạn nhân tại vị trí nào và với mức độ hành vi tấn công ra sao để quyết định người này có đủ yếu tố về mặt khách quan cấu thành tội cố ý gây thương tích hay không.
Để phân biệt mong muốn gây thương tích và mong muốn giết người khác cần làm rõ được các yếu tố:
Phương tiện, công cụ sử dụng có tính sát thương cao hay không: người phạm tội chỉ lựa chọn phương tiện ít nguy hiểm đến tính mạng (ví dụ sử dụng tay, chân, gậy guộc,…) hay có sử dụng phương tiện, công cụ có tính chất gây sát thương cao nhưng vị trí tấn công không phải vị trí chí mạng, cường độ không lớn (việc sử dụng vũ khí này sẽ là tình tiết định khung hình tăng nặng của tội phạm)
Vị trí tấn công: tấn công vào những vị trí không xung yếu trên cơ thể nạn nhân (nơi xung yếu trên cơ thể thường là vùng đầu, vùng ngực, vùng cổ,…)
Thực hiện hành vi với cường độ, mức độ tấn công có nhiều, mạnh hay không: việc tấn công liên tục, mạnh vào một vị trí của nạn nhân có thể sẽ không được coi là tội cố ý gây thương tích nữa mà chuyển sang tội cố ý giết người.
+ Hậu quả của tội phạm
Hậu quả của tội cố ý gây thương tích cho người khác là để lại vết thương và được xác nhận bằng kết quả giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể của nạn nhân.
Mặt chủ quan của tội phạm:
Người phạm tội thực hiện hành vi với mong muốn hay để mặc cho kết quả xảy ra, mong muốn cho người khác bị thương tích hoặc tổn hại về sức khỏe.
Khách thể của tội phạm:
Xâm phạm đến khách thể của tội phạm là việc xâm phạm đến lĩnh vực được pháp luật Việt Nam bảo vệ mà theo quy định của Bộ luật Hình sự thì phải bị xử lý hình sự. Khách thể của tội cố ý gây thương tích đó là quyền được pháp luật bảo vệ về sức khỏe.
2. Mức hình phạt đối với tội cố ý gây thương tích cho người khác:
Mức phạt của tội cố ý gây thương tích được quy định tại Điều 134 Bộ Luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 như sau:
– Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm đối với trường hợp:
+ Cố ý gây thương tích cho người khác mà tỷ lệ cơ thể bị tổn thương là từ 11% đến 30%.
+ Hoặc tỷ lệ tổn thương cơ thể của nạn nhân dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp:
Sử dụng những thủ đoạn nguy hiểm có khả năng gây tổn hại cho nhiều người.
Sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm như là dao, súng, gậy gộc, bom, mìn, lựu đạn… để phạm tội.
Người phạm tội sử dụng hóa chất nguy hiểm, sử dụng a-xít nguy hiểm để gây thương tích cho người khác.
Phạm tội đối với trẻ em dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc những đối tượng không có khả năng tự vệ khác.
Phạm tội đối với người có công nuôi dưỡng, giáo dục, chữa bệnh cho mình, với ông, bà, cha, mẹ, thầy cô giáo.. chẳng hạn như là con đánh cha mẹ, cháu đánh ông bà, bệnh nhân đánh thầy thuốc trực tiếp chữa trị bệnh cho mình.
Cố ý gây thương tích đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của họ.
Việc phạm tội được thực hiện có tổ chức, có tính chất côn đồ.
Người phạm tội là người có chức vụ, quyền hạn và lợi dụng quyền hạn, chức vụ của bản thân để phạm tội.
Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê.
Người phạm tội đang trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Phạm tội đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
– Phạt tù từ 02 năm đến 06 năm đối với trường hợp:
+ Có từ 2 lần phạm tội trở lên.
+ Có hành vi tái phạm nguy hiểm.
+ Mức độ tỷ lệ tổn thương cơ thể gây ra cho nạn nhân là từ 31% đến 60%.
+ Mức độ tỷ lệ tổn thương cơ thể gây ra cho nạn nhân là từ 11% đến 30% nhưng có một trong những tình tiết nguy hiểm đã kể đến ở trên.
+ Gây thương tích cho 02 trở lên người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người là từ 11% đến 30%.
– Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm đối với các trường hợp:
+ Tỷ lệ tổn thương cơ thể mà người phạm tội gây ra cho nạn nhân lên đến 61% trở lên.
+ Gây thương tích cho 02 trở lên người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người là từ 31% đến 60%.
+ Tỷ lệ tổn thương cơ thể của nạn nhân ở mức 31% đến 60% nhưng có những tình tiết nguy hiểm như là sử dụng hung khí, vũ khí, gây thương tích với người không có khả năng chống cự, đang thi hành công vụ như đã nêu trên.
+ Gây thương tích cho từ 02 nạn nhân trở lên, tỷ lệ tổn thương của mỗi nạn nhân là từ 11% đến 30% nhưng có một trong những tình tiết nguy hiểm như là sử dụng những thủ đoạn có khả năng gây tổn hại cho nhiều người, sử dụng vũ khí, hung khí nguy hiểm; sử dụng hóa chất nguy hiểm, a-xít để phạm tội; phạm tội có tổ chức, có tính chất côn đồ…
– Phạt tù từ 07 năm đến 14 năm đối với trường hợp:
+ Làm thiệt hại về tính mạng của nạn nhân.
+ Làm biến dạng vùng mặt của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể lên đến hơn 61%.
+ Phạm tội đối với 2 người trở lên, tỷ lệ tổn thương của mỗi người đã vượt quá 61%.
+ Hoặc trường hợp gây thương tích cho một người, tỷ lệ tổn thương cơ thể của người đó là từ 61% trở lên nhưng thuộc trường hợp có một trong những tình tiết nguy hiểm (sử dụng hung khí, axit, có tình chất côn đồ, bạo lực…).
+ Gây thương tích cho từ 02 người trở lên, thương tích của mỗi nạn nhân có tỷ lệ tổn thương cơ thể là 31% đến 60% có một trong những tình tiết nguy hiểm (sử dụng hung khí, vũ khí, axit, có tình chất côn đồ, có tổ chức…).
– Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, hoặc phạt tù trung thân đối với trường hợp:
+ Có 02 người thiệt mạng trở lên.
+ Gây thương tích cho từ 02 người trở lên, thương tích của mỗi nạn nhân có tỷ lệ tổn thương cơ thể là từ 61% trở lên có một trong những tình tiết nguy hiểm (sử dụng hung khí, vũ khí, axit, có tình chất côn đồ, có tổ chức…).
– Phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt từ 03 tháng đến 02 năm trong trường hợp: Có hành vi tham gia hoặc thành lập băng nhóm tội phạm để thực hiện gây thương tích cho người khác; hoặc chuẩn bị vật liệu nổ, vũ khí, hung khí nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm, a-xít nguy hiểm để thực hiện phạm tội.
3. Mức phạt hành chính khi không đủ cấu thành tội cố ý gây thương tích:
Những trường hợp mà chưa đủ yếu tố để cấu thành tội hình sự theo quy định tại Điều 134 Bộ luật Hình sự thì sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định tại Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy chữa cháy; phòng chống bạo lực gia đình.
Mức xử phạt hành chính được quy định tại Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP như sau:
– Phạt tiền từ 500 ngàn đồng đến 01 triệu đồng đối với hành vi đánh nhau hoặc xúi giục người khác đánh nhau.
– Phạt tiền từ 02 triệu đồng đến 03 triệu đồng đối với hành vi:
+ Thuê hoặc lôi kéo người khác đánh nhau;
+ Cố tình xâm hại hoặc thuê người khác thực hiện hành vi xâm hại sức khỏe của người khác.
Việc xử phạt hành chính đối với hành vi này sẽ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền lập thành biên bản.
4. Luật sư tư vấn một số câu hỏi về tội cố ý gây thương tích:
Câu hỏi số 1:
Cho em hỏi. Em có người thân trong lúc say rượu có cãi cọ và xích mích với hàng xóm sảy ra xô sát với 3 cha con người hàng xóm đều trên tuổi vị thành niên. Bên hàng xóm có 1 người bị thương trên mặt là 15% còn người thân của em bị nát xương chân thương tật là 17%. Giờ bên kia họ kiện vậy cho em hỏi có đi tù không và mức án như thế nào. Xin cám ơn ạ?
Luật sư tư vấn:
Hành vi cố ý gây thương tích cho người khác dù trong tình huống người gây thương tích say rượu vẫn được coi là hành vi vi phạm pháp luật theo quy định tại Điều 13 Bộ luật Hình sự 2015 về phạm tội do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác.
Theo như bạn trình bày, người thân của chị và người hàng xóm đều thực hiện hành vi có đầy đủ dấu hiệu cấu thành Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác.
Người thân của bạn được xác định thương tích 17% và người hàng xóm được xác định thương tích là 15%, áp dụng khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 thì người thân của bạn và hàng xóm có thể phải nhận mức án phạt là cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Ngoài ra, nếu một trong hai người hoặc cả hai người thuộc đối tượng của tội phạm quy định tại Khoản 2 điểm c, d, đ Điều này thì một trong hai người hoặc cả hai người có thể nhận mức án là phạt tù từ 02 đến 06 năm.
Câu hỏi số 2:
Chào luật sư . Tôi nhờ luật sư tư vấn nội dung sau: Nhà tôi có thửa đất vốn là đất nông nghiệp nhưng xung quanh đã xây dựng hết còn nhà tôi chưa xây. Vì lô đất nhà tôi ở cuối của đường đi chung và lại bỏ hoang mấy năm không trồng trọt nên gia đình anh B tự ý trồng đào trên đất đường đi chung (ngay trước mặt lô đất nhà tôi). Làm nhỏ lối vào lô đất nhà tôi nên tôi đã tự ý nhổ bỏ, ngay sau đó gia đình anh B đã kéo con cháu ra đánh tôi, ném gạch vào đầu tôi khiến tôi bị rách 7cm ở trán và 3cm ở má . Vậy xin hỏi luật sư tôi và gia đình anh B phải chịu trách nhiệm gì trong việc này? Xin cám ơn.
Luật sư tư vấn:
Đối với hành vi cố ý gây thương tích cho người khác sẽ đặt ra trách nhiệm bao gồm: xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự và trách nhiệm bồi thường dân sự.
Bạn thông tin gia đình anh B vì mâu thuẫn tranh chấp đất đai với gia đình nhà bạn nên đã có hành vi cố ý gây thương tích cho bạn, cụ thể họ dùng gạch ném và khiến bạn bị rách 7cm ở trán và 3cm ở má. Bạn nên làm đơn trình báo đến cơ quan công an cấp quận, huyện nơi xảy ra vụ việc để giám định tỷ lệ thương tật.
* Thứ nhất: Về trách nhiệm hình sự:
Nếu như có tỷ lệ thương tật thì bên B sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự sửa đổi 2017.
Về tình tiết định khung sử dụng “hung khí nguy hiểm” theo Điểm a Khoản 1 Điều 134 được hướng dẫn bởi Tiểu mục 3.1
– Dùng hung khí nguy hiểm là trường hợp dùng vũ khí hoặc phương tiện nguy hiểm.
– Phương tiện nguy hiểm là công cụ, dụng cụ được chế tạo ra nhằm phục vụ cho cuộc sống của con người (trong sản xuất, trong sinh hoạt) hoặc vật mà người phạm tội chế tạo ra nhằm làm phương tiện thực hiện tội phạm hoặc vật có sẵn trong tự nhiên mà người phạm tội có được và nếu sử dụng công cụ, dụng cụ hoặc vật đó tấn công người khác thì sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức khoẻ của người bị tấn công.
+ Về công cụ, dụng cụ
Ví dụ: búa đinh, dao phay, các loại dao sắc, nhọn…
+ Về vật mà người phạm tội chế tạo ra
Ví dụ: thanh sắt mài nhọn, côn gỗ…
+ Về vật có sẵn trong tự nhiên
Ví dụ: gạch, đá, đoạn gậy cứng, chắc, thanh sắt…
Như vậy, khi bên B sử dụng gạch, đá gây thương tích cho bạn thì tỷ lệ thương tật của bạn dưới 11% cũng sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác theo Điều 134 Bộ luật hình sự sửa đổi năm 2017.
* Thứ hai: Vấn đề xử phạt vi phạm hành chính:
Nếu việc xâm hại đến sức khỏe của bạn không gây ra tỷ lệ thương tật thì bên B sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điểm e Khoản 3 Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP.
* Thứ ba: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại dân sự:
Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm sẽ bao gồm những khoản sau đây:
– Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;
– Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;
– Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;
– Thiệt hại khác do luật quy định.
– Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
Câu hỏi số 3:
Bạn em cách đây gần 1 tháng có đi đòi tiền nhà chủ nợ. Nhưng đòi nhiều lần mà không được trong lúc lời qua tiếng lại trong lúc tức giận có vung chiếc điếu cầy và chẳng may có 1 em chưa đủ 18 tuổi bị thương nhẹ 3%. Và khi em ấy đi bệnh viện gia đình đã chi trả viện phí và thuốc thang. Vậy xin hỏi luật sư bạn em có bị khởi tố không? Xin luật sư tư vấn ạ.
Luật sư tư vấn:
Dựa theo thông tin bạn cung cấp thì do không đòi được tiền nợ và có lời qua tiếng lại nên trong lúc mâu thuẫn bạn của bạn có sử dụng chiếc điếu cầy gây thương tích cho người khác. Để xác định việc bạn của bạn có bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay không thì cần xem xét các phương diện sau:
Căn cứ theo quy định tại Điều 134
Theo quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bởi khoản 22 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật hình sự 2015 thì để bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi cố ý gây thương tích thì phải đáp ứng các yếu tố cấu thành của tội này, cụ thể:
– Về mặt hành vi của tội phạm: Người phạm tội có hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho người khác. Hành vi cố ý gây thương tích này thể hiện nhận thức và sự điều khiển hành vi của người phạm tội mong muốn gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Hành vi này là nguyên nhân dẫn đến việc gây ra thương tích cho người khác.
– Về chủ thể: Người phạm tội có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định.
– Về khách thể: Khách thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là quyền được pháp luật bảo vệ.
– Mặt chủ quan của tội phạm: Người phạm tội mong muốn gây ra thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, hoàn toàn có lỗi trong việc gây ra thương tích.
Xem xét trong trường hợp của bạn, người bạn của bạn do mâu thuẫn, tranh cãi đã có hành vi vung chiếc điếu cày, dẫn đến việc một người bị thương 3%. Có thể thấy, bạn của bạn đã có hành vi xâm phạm đến sức khỏe của người khác, gây ra tổn hại cho sức khỏe và thương tích cho người khác với mức tỷ lệ tổn hại là 3%.
Người bạn của bạn, theo thông tin cho thấy người này đều có đầy đủ năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Hành vi của người này là “vung” chiếc điếu cày – một vật dụng trong gia đình và trực tiếp gây tổn hại cho người khác. Chiếc điếu cày, theo quy định tại điểm 3.1 Điều 3 Nghị quyết 01/2006/NQ- HĐTP, và quy định tại điểm a tiểu mục 2.2 mục 2 Phần I Nghị quyết 02/2003/NQ- HĐTP được xác định là một hung khí nguy hiểm.
Từ những phân tích nêu trên, căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bởi Khoản 22 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015, trong trường hợp này, mặc dù người bị thiệt hại chỉ bị thương với tỷ lệ tổn hại sức khỏe là 3%, nhưng bạn của bạn – người đã có hành vi sử dụng hung khí nguy hiểm để gây ra thiệt hại. Trường hợp này, bạn của bạn vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu hành vi này là cố ý, nhằm mục đích gây thương tích cho người khác.
Căn cứ theo quy định tại Điều 155
Trường hợp, người dưới 18 tuổi bị thương, và người đại diện hợp pháp của họ không có đơn yêu cầu khởi tố, hoặc rút đơn yêu cầu khởi tố thì bạn của bạn sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Như vậy, qua phân tích, nếu như hành vi gây thương tích cho người khác bằng điếu cày của bạn của bạn là hành vi cố ý thì bạn của bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội cố ý gây thương tích theo quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bởi khoản 22 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự 2015 trong trường hợp bên bị hại có đơn yêu cầu khởi tố.
Mặc dù gây thương tích cho người khác bằng điếu cày, nhưng nếu như việc “vung” điếu cày là hành vi không cố ý, thể hiện ở việc người bạn của bạn chỉ “vung” điếu cày lên để dọa dẫm người khác, nhưng lại vô tình gây tổn hại cho sức khỏe của người này thì dựa trên sự phân tích ở trên, việc làm của bạn của bạn sẽ không đủ yếu tố để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích theo quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự 2015, được sửa đổi bởi khoản 22 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự 2015.