Tội ác chống ngoài người mang bản chất là loại tội phạm có tính chất quốc tế, tồn tại trong cả hệ thống của pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế. Dưới đây là quy định của pháp luật về tội chống phá loài người theo quy định Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Mục lục bài viết
1. Dấu hiệu pháp lí của tội chống phá loài người theo quy định Bộ luật hình sự 2015:
1.1. Tội ác chống loài người được hiểu như thế nào?
Tội ác chống lại người là một khái niệm để chỉ hành vi được thực hiện có chủ đích bởi những thành phần nổi loạn nhằm chống lại con người, tội chống lại người được thực hiện trong cả thời chiến hoặc thời bình. Đây là một trong 04 loại tội ác nguy hiểm nhất mà pháp luật quốc tế quy định. khác với tội ác chiến tranh, thì tội ác chống lại loài người không phải là những hành vi bị cô lập mà đó là những hành vi được thực hiện nhằm hiện thực hóa chính sách của nhà nước hoặc một tổ chức nhất định. Thông thường thì để thực hiện tội chống lại loài người, cần phải được thực hiện có hệ thống và trên phạm vi lớn, đặt dưới sự chỉ đạo của một tổ chức hoặc một chính quyền tập thể nhất định. Theo đó có thể hiểu, tội chống lại loài người là hành vi tấn công có hệ thống, trên diện rộng nhằm vào “một cộng đồng dân thường”.
1.2. Các dấu hiệu pháp lí cấu thành tội chống loài người theo Điều 422 của Bộ luật hình sự 2015:
Thứ nhất, dấu hiệu mặt khách quan của tội phạm. Hành vi khách quan của tội phạm được quy định là hành vi tiêu diệt hàng loạt dân cư của một khu vực, phá hủy nguồn sống, phá hoại cuộc sống văn hóa tinh thần của một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ độc lập, có chủ quyền, làm đảo lộn nền tảng của một xã hội hoặc hành vi diệt trùng khác, hành vi diệt môi trường tự nhiên. Như vậy thì đối tượng tác động chính của hành vi khách quan của tội phạm là dân cư (tức là một cộng đồng dân thường hoặc một chủng tộc, một nhóm người hoặc nhóm tôn giáo…). Bên cạnh đó thì đối tượng tác động của hành vi khách quan của tội phạm còn có thể là các yếu tố bảo đảm nguồn sống của con người (như kho lương thực hoặc thuốc chữa bệnh…). Ngoài ra, các thiết chế văn hóa, tinh thần của quốc gia hoặc vùng lãnh thổ có ý nghĩa là nền tảng của xã hội hoặc các yếu tố của môi trường tự nhiên bảo đảm cho sự sống của con người cũng có thể là đối tượng tác động của tội chống lại người.
Trên cơ sở quy định của điều luật có thể xác định tội phạm này bao gồm hành vi diệt trùng và các hành vi khác chống lại người. hành vi tiêu diệt hàng loạt dân cư của một khu vực là hành vi giết hại hàng loạt dân thường trong một khu vực của quốc gia hoặc vùng lãnh thổ độc lập, có chủ quyền. Hành vi giết người nhằm vào số lượng dân thường lớn, có thể trong một lần hoặc nhiều lần. Tiêu diệt thể hiện hành vi không đơn giản là tước đoạt tính mạng mà với ý thức triệt tiêu cơ dân của khu vực đó.
– Hành vi phá hủy nguồn sống của một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ độc lập, có chủ quyền là hành vi cố ý triệt tiêu các điều kiện sống của con người như phá hủy nguồn thức ăn, phá hủy nguồn nước …;
– Hành vi phá hoại cuộc sống văn hóa tinh thần của một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ độc lập, có chủ quyền được hiểu là hành vi làm tổn hại nghiêm trọng đến các yếu tố văn hóa hoặc tinh thần của quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nào đó, như hành vi áp đặt lối sống hà khắc, thực hiện chính sách ngu dân, phá hoại các công trình văn hóa thiết yếu, buộc người dân phải thay đổi tôn giáo …;
– Hành vi làm đảo lộn nền tảng của một xã hội được hiểu là hành vi làm thay đổi hoàn toàn theo chiều hướng xấu những yếu tố và giá trị làm cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của xã hội đó nhằm hủy diệt hoặc gây khó khăn cho sự tồn tại của xã hội;
– Ngoài ra, hành vi diệt trùng khác có thể được hiểu là một trong số những hành vi của tội diệt chủng theo pháp luật quốc tế, cụ thể là được quy định tại Điều 6 của Quy chế Rome, được thực hiện nhằm hủy diệt toàn bộ hoặc từng phần một nhóm người của dân tộc, sắc tộc hay tôn giáo nào đó. Các hành vi này có thể được xảy ra trong thời bình hoặc trong chiến tranh.
Thứ hai, dấu hiệu mặt chủ quan của tội phạm. Lỗi của người phạm tội được ghi nhận là lỗi cố ý, tức là họ nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và vi phạm quy định của pháp luật, thấy trước được hậu quả mà hành vi của mình sẽ gây ra nhưng vẫn thực hiện và có thái độ mong muốn hoặc mặc kệ cho hậu quả đó xảy ra.
Thứ ba, yếu tố khách thể của tội phạm. Loại tội này xâm phạm đến quyền sống và quyền được hòa bình của con người. Nó không chỉ xâm phạm đến quyền riêng biệt của từng con người mà còn xâm hại đến quyền của những cộng đồng người và những dân tộc người nhất định, vì nó được xác định là hành vi được thực hiện trên quy mô rộng, có đối tượng tác động là những cộng đồng người (chủng tộc hoặc dân tộc).
Thứ tư, yếu tố chủ thể của tội phạm. Chủ thể của tội chống loài người là chúng ta bình thường. Những người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định đều có thể trở thành chủ thể của loại tội phạm này.
2. Hình phạt của tội chống phá loài người theo quy định Bộ luật hình sự 2015:
Do tính chất đặc biệt nguy hiểm của loại tội phạm này lên hình phạt được quy định khá nghiêm khắc. Các hình phạt chính bao gồm tù có thời hạn, và tù chung thân hoặc tử hình, đối với các tội phạm được quy định cụ thể tại Điều 421 đến Điều 423 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đều có mức phạt cao nhất liên quan đến tử hình. Cụ thể đối với loại tội chống loài người theo quy định tại Điều 422 của Bộ luật Hình sự năm 2015 hiện hành, thì có quy định hai khung hình phạt chính:
Thứ nhất, khung hình phạt cơ bản được quy định là hình phạt tù từ 10 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.
Thứ hai, khung hình phạt giảm nhẹ được quy định là hình phạt tù từ 10 năm đến 20 năm, được áp dụng cho trường hợp phạm tội do bị ép buộc hoặc do thi hành mệnh lệnh của cấp trên.
3. Nhận biết giữa tội chống phá loài người theo quy định Bộ luật hình sự 2015 và quy chế Rome:
Tội chống loài người được quy định tại Điều 422 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi và bổ sung năm 2017). Có thể nói, quy định về tội chống lại người theo pháp luật hình sự Việt Nam có nhiều điểm khác với luật hình sự quốc tế nếu đối chiếu với những quy định về loại tội này trong Quy chế Rome về Tòa án hình sự quốc tế. Quy chế Rome quy định các tội chống loài người là những hành vi sau đây, được thực hiện với tư cách là một phần của hành động tấn công trực tiếp nhằm vào dân thường có quy mô lớn hoặc có hệ thống với nhận thức tấn công là:
– Giết người hoặc hủy diệt, nô lệ hóa hoặc trục xuất hoặc di chuyển dân cư theo kiểu cưỡng bức;
– Tù đày hoặc các hình thức khác tước đoạt tự do thân thể của con người một cách nghiêm trọng vi phạm các quy tắc cơ bản của pháp luật quốc tế;
– Tra tấn hoặc hiếp dâm, bắt làm nô lệ tình dục hoặc cưỡng bức làm mại dâm, cưỡng bức mang thai hoặc ép buộc triệt sản hoặc các hình thức bạo lực nghiêm trọng khác về tình dục;
– Ngược đãi nhóm người hoặc tập thể người xác định vì lý do về chính trị, sắc tộc, dân tộc, văn hóa, tôn giáo, giới tính hoặc các lý do được thừa nhận trên toàn cầu là không thể cho phép theo pháp luật quốc tế;
– Ép buộc người khác mất tích;
– Các hành vi vô nhân đạo khác tương tự cố ý gây ra những đau đớn trầm trọng hoặc những thương tích nghiêm trọng hay thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe về mặt tinh thần hoặc thể xác (căn cứ theo Điều 7 của Quy chế Rome).
Sự đa dạng và cụ thể hành vi khách quan, sự xác định của mục đích phạm tội là khác biệt của tội chống lại người theo quy chế so với tội phạm này của pháp luật hình sự Việt Nam. Bên cạnh đó thì tội chống lại người theo quy chế chỉ có đối tượng tác động là con người. Còn theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam lại có thêm các đối tượng tác động khác như đã phân tích ở trên. Ngoài ra thì pháp luật hình sự Việt Nam quy định loại tội phạm này trên cơ sở bao gồm hành vi diệt trùng và các hành vi khác chống lại người. Đây được xem là một điểm khác căn bản giữa quy định của pháp luật hình sự Việt Nam với quy định của quy chế, vì theo quy chế thì tội diệt chủng (Điều 6) và các tội chống loài người (Điều 7) là những tội phạm độc lập và khác biệt về bản chất. Tội diệt chủng có mục đích là tiêu diệt một phần hoặc toàn bộ một nhóm dân cư hoặc tôn giáo, trong khi đó thì tội chống lại người không có mục đích trên và có các đặc trưng là hành vi tấn công nhằm vào dân thường với quy mô lớn và có hệ thống. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam cho thấy tội phạm này có nhiều dấu hiệu pháp lý giống với tội diệt chủng trong luật hình sự quốc tế hơn và chỉ giống tội chống lại người ở dấu hiệu đối tượng tác động là dân cư.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
– Quy chế Rome năm 1998 về Tòa án Hình sự quốc tế (International Criminal Court – ICC).