Trong hệ thống pháp luật hình sự, trẻ em dưới 16 tuổi luôn được coi là đối tượng đặc biệt cần được bảo vệ toàn diện. Bất kỳ hành vi nào xâm phạm đến quyền được bảo hộ của trẻ em đều bị xử lý nghiêm khắc. Hiện nay, tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi được quy định tại Điều 153 Bộ luật Hình sự 2015 là một trong những tội phạm điển hình.
Mục lục bài viết
- 1 1. Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi được hiểu như thế nào?
- 2 2. Cấu thành tội phạm của Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi:
- 4 4. Tình tiết tăng nặng của Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi:
- 5 5. Phân biệt Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi và Tội mua bán người dưới 16 tuổi:
- 6 6. Bản án điển hình về Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi:
1. Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi được hiểu như thế nào?
Khoản 1 Luật Trẻ em năm 2016 quy định: Trẻ em là người dưới 16 tuổi. Theo đó, người dưới 16 tuổi được gọi là trẻ em.
Chiếm đoạt người dưới 16 tuổi có thể được hiểu là việc một người dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác chiếm giữ hoặc giao cho người khác chiếm giữ người dưới 16 tuổi.
Hành vi này có thể được thể hiện qua việc dùng các thủ đoạn như: Lén lút, lừa gạt, dụ dỗ trẻ em đưa trẻ em thoát khỏi sự quản lý, trông nom của cha mẹ hoặc người có trách nhiệm để đem bán, nuôi làm con nuôi hoặc để trả thù cha mẹ đứa trẻ… Nhìn chung thì việc chiếm đoạt trẻ em có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau.
Tuy nhiên dù dưới bất kỳ hình thức nào thì người có hành vi chiếm đoạt trẻ em dưới 16 tuổi vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thỏa mãn đầy đủ cấu thành tội phạm của Điều 153 Bộ luật Hình sự 2015.
Từ đó có thể đưa ra khái niệm như sau: “Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác chiếm giữ hoặc giao cho người khác chiếm giữ người dưới 16 tuổi.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi:
2.1. Cơ sở pháp lý của Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi:
Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi hiện nay đang được quy định tại Điều 153 Bộ luật Hình sự 2015. Cụ thể như sau:
“1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác chiếm giữ hoặc giao cho người khác chiếm giữ người dưới 16 tuổi, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp;
c) Đối với người mà mình có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng;
d) Đối với từ 02 người đến 05 người;
đ) Phạm tội 02 lần trở lên;
e) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:
a) Có tính chất chuyên nghiệp;
b) Đối với 06 người trở lên;
c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
d) Làm nạn nhân chết;
đ) Tái phạm nguy hiểm.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2.2. Khách thể của Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi:
Tội phạm xâm phạm đến thân thể, nhân phẩm, danh dự của người dưới 16 tuổi. Như vậy, khách thể của tội phạm này là:
- Quyền được Nhà nước bảo hộ về thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người dưới 16 tuổi;
- Và tình hình ổn định của toàn xã hội.
2.3. Mặt khách quan của Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi:
Mặt khách quan của Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi được mô tả tại Bộ luật Hình sự 2015. Đó là các hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác chiếm giữ hoặc giao cho người khác chiếm giữ người dưới 16 tuổi. Cụ thể:
a. Hành vi dùng vũ lực:
- Người phạm tội dùng vũ lực nhằm chiếm giữ hoặc giao cho người khác chiếm giữ người dưới 16 tuổi như: giữ chân tay, bịt mồm, đánh đấm, trói… người bị hại;
- Những hành vi này chủ yếu làm tê liệt sự kháng cự của người bị hại để người phạm tội thực hiện được việc chiếm giữ người dưới 16 tuổi.
b. Hành vi đe doạ dùng vũ lực:
- Người phạm tội dùng lời nói hoặc hành động uy hiếp tinh thần của người khác, làm cho người bị đe dọa sợ hãi như: doạ giết, dọa đánh, dọa bắn… làm cho người bị hại sợ hãi phải để cho người phạm tội chiếm giữ mình hoặc giao cho người khác chiếm giữ mình,
- Người phạm tội có thể đe dọa dùng vũ lực với người thân thích, người mà nạn nhân quan tâm như đe dọa sẽ giết cha mẹ của nạn nhân để khống chế, chiếm giữ hoặc giao cho người khác chiếm giữ nạn nhân.
c. Hành vi dùng thủ đoạn khác:
Theo tinh thần tại khoản 3 Điều 2 quyết số 02/2019/NQ-HĐTP: Thủ đoạn khác quy định tại khoản 1 Điều 150 của Bộ luật Hình sự là các thủ đoạn như: bắt cóc; cho nạn nhân uống thuốc ngủ, thuốc gây mê, uống rượu, bia hoặc các chất kích thích mạnh khác làm nạn nhân lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi; đầu độc nạn nhân; lợi dụng việc môi giới hôn nhân, môi giới đưa người đi lao động ở nước ngoài; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; lợi dụng tình thế bị lệ thuộc; lợi dụng tình thế dễ bị tổn thương hoặc tình trạng quẫn bách của nạn nhân (ví dụ: lợi dụng tình trạng nạn nhân có người thân bị bệnh hiểm nghèo cần tiền chữa trị ngay, nếu không sẽ nguy hiểm đến tính mạng) để thực hiện một trong các hành vi hướng dẫn tại khoản 1 Điều này.
Theo đó, có thể hiệu thủ đoạn khác nhằm chiếm giữ hoặc giao cho người khác chiếm giữ người dưới 16 tuổi là các thủ đoạn như: Bắt cóc, lừa gạt, lợi dụng tình trạng khó khăn của nạn nhân… để chiếm giữ hoặc giao cho người khác chiếm giữ người dưới 16 tuổi.
Lưu ý: Chỉ cần xác định người bị hại là người dưới 16 tuổi và người phạm tội đã thực hiện hành vi chiếm đoạt người bị hại thì mặc nhiên cấu thành tội phạm này (tội phạm hoàn thành).
2.4. Chủ thể của Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi:
Chủ thể của Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi là bất kì ai có năng lực trách nhiệm hình sự từ 16 tuổi trở lên. Cụ thể:
- Chủ thể của tội phạm có thể là bất kỳ ai, có thể thực hiện hành vi phạm tội một mình nhưng cũng có thể là phạm tội có tổ chức;
- Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi là người từ đủ 16 tuổi theo Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015;
- Chủ thể của tội phạm phải là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự bao gồm năng lực nhận thức và năng lực làm chủ hành vi của mình.
2.5. Mặt chủ quan của Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi:
Chủ thể thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp. Tức là người phạm tội hoàn toàn nhận thức được hành vi của mình xâm phạm đến quyền tự do của nạn nhân nhưng mong muốn hậu quả đó xảy ra, muốn chiếm giữ nạn nhân một cách bất hợp pháp.
Động cơ phạm tội và mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc cấu thành tội phạm. Nhìn chung, mục đích phạm tội ở đây nhằm chiếm giữ nạn nhân, nếu việc chiếm đoạt nạn nhân nhằm mục đích khác thì sẽ không cấu thành tội phạm này.
3. Khung hình phạt của Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi:
Điều 153 Bộ luật Hình sự 2015 quy định khung hình phạt đối với Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi như sau:
Khung 1: Áp dung cho hành vi chiếm đoạt người dưới 16 tuổi là từ 03 năm đến 07 năm tù.
Khung 2: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm trong các trường hợp sau:
- Hành vi có tổ chức;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
- Đối với người mà họ có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng;
- Đối với từ 02 người đến 05 người;
- Phạm tội 02 lần trở lên;
- Gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe, gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân với tỷ lệ tổn thương từ 31% đến 60%.
Khung 3: Phạt tù từ 10 năm đến 15 năm trong trường hợp:
- Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp;
- Đối với 06 người trở lên;
- Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
- Làm nạn nhân tử vong;
- Tái phạm nguy hiểm.
Hình phạt bổ sung:
- Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Tình tiết tăng nặng của Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi:
Các tình tiết định khung tăng nặng của Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi được quy định tại khoản 2 và Khoản 3 của Điều 153 Bộ luật Hình sự 2015. Các tình tiết này phản ánh mức độ nguy hiểm cao hơn của hành vi phạm tội so với khung cơ bản (Khoản 1 Điều 153), do đó phải chịu hình phạt nghiêm khắc hơn. Cụ thể như sau:
4.1. Khung tăng nặng theo khoản 2 Điều 153 Bộ luật Hình sự 2015:
a. Có tổ chức theo điểm a khoản 2 Điều 153 Bộ luật Hình sự 2015:
Có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ và phân công, sắp đặt vai trò của những người cùng thực hiện tội phạm. Theo khoản 3 Điều 17 quy định Bộ luật Hình sự 2015:
- Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm;
- Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm;
- Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm;
- Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.
b. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp theo điểm b khoản 2 Điều 153 Bộ luật Hình sự 2015:
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn là dựa vào chức vụ, quyền hạn được giao để làm trái, không làm hoặc làm không đúng quy định của pháp luật.
Đây là trường hợp người phạm tội là người có chức vụ, quyền hạn nhất định theo luật định hoặc được các cơ quan, tổ chức tổ nhiệm, giao nhiệm vụ đã lợi dụng chức vụ quyền hạn hoặc nghề nghiệp của mình để chiếm đoạt người dưới 16 tuổi.
c. Đối với người mà mình có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng theo điểm c khoản 2 Điều 153 Bộ luật Hình sự 2015:
Người có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng bao gồm: Bố mẹ bán con đẻ, con nuôi; ông bà, chú bác, cô dì bán cháu trong trường hợp bố mẹ cháu chết hoặc ly hôn, ốm đau bệnh tật nan y không có điều kiện chăm sóc đã giao cho ông bà, chú bác cô dì chăm sóc, nuôi dưỡng cháu dưới 16 tuổi.
d. Đối với từ 02 người trở lên theo điểm d khoản 2 Điều 153 Bộ luật Hình sự 2015:
Đối với từ 02 người trở lên là trường hợp nạn nhân bị chiếm đoạt là từ 02 người trở lên.
Trường hợp này, người phạm tội đã chiếm đoạt người dưới 16 tuổi trên diện rộng, ảnh hưởng đến nhiều người.
Nhà làm luật cũng quy định nếu số nạn nhân từ 02 đến 05 người thì người phạm tội chịu trách nhiệm theo khoản 2 Điều 153 Bộ luật Hình sự 2015; còn nếu số nạn nhân từ 06 người trở lên thì người phạm tội phải chịu trách nhiệm theo khoản 3 Điều 153 Bộ luật Hình sự 2015.
đ. Phạm tội 02 lần trở lên theo điểm đ khoản 2 Điều 153 Bộ luật Hình sự 2015:
Phạm tội 02 lần trở lên là trường hợp người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi từ 02 lần trở lên nhưng đều chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
e. Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% theo điểm e khoản 2 Điều 153 Bộ luật Hình sự 2015:
Căn cứ để đánh giá mức độ thương tích, mức độ rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân là kết quả giám định pháp y theo quy định tại Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28 tháng 8 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần.
Đây là trường hợp việc dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực để chiếm giữ hoặc giao nạn nhân cho người khác chiếm giữ đã gây tổn hại đáng kể đến sức khỏe, tinh thần của nạn nhân dù người phạm tội có mong muốn gây nên tổn hại đó cho nạn nhân hay không.
4.2. Khung tăng nặng theo khoản 3 Điều 153 Bộ luật Hình sự 2015:
a. Có tính chất chuyên nghiệp theo điểm a khoản 3 Điều 153 Bộ luật Hình sự 2015:
Có tính chất chuyên nghiệp là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi chiếm đoạt người dưới 16 tuổi từ 05 lần trở lên (không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích) và người phạm tội lấy khoản lợi bất chính thu được từ chiếm đoạt người dưới 16 tuổi làm nguồn sống chính.
b. Đối với 06 người trở lên theo điểm b khoản 3 Điều 153 Bộ luật Hình sự 2015:
Số lượng nạn nhân bị chiếm đoạt rất lớn, thể hiện quy mô và mức độ nguy hiểm đặc biệt cao của hành vi.
c. Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên theo điểm c khoản 3 Điều 153 Bộ luật Hình sự 2015:
Hậu quả gây ra cho nạn nhân là đặc biệt nghiêm trọng, ảnh hưởng nặng nề đến thể chất và tinh thần của họ.
d. Làm nạn nhân chết theo điểm d khoản 3 Điều 153 Bộ luật Hình sự 2015:
Làm nạn nhân chết là trường hợp nạn nhân trong quá trình bị chiếm đoạt đã chết (ví dụ như: người phạm tội đã dùng vũ lực trong quá trình chiếm đoạt người dưới 16 tuổi khiến nạn nhân chết…).
Trong trường hợp nạn nhân chết không phải là do quá trình chiếm đoạt mà do nguyên nhân khác như bệnh nhân bị bệnh… thì người phạm tội không bị truy cứu về tình tiết tăng nặng này.
đ. Tái phạm nguy hiểm theo điểm đ khoản 3 Điều 153 Bộ luật Hình sự 2015:
Điều 53 Bộ luật Hình sự 2015 quy định những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
- Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
- Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.
5. Phân biệt Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi và Tội mua bán người dưới 16 tuổi:
Tiêu chí | Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi | Tội mua bán người dưới 16 tuổi |
Cơ sở pháp lý | Điều 153 Bộ luật Hình sự 2015 | Điều 151 Bộ luật Hình sự 2015 |
Khái niệm | Là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, thủ đoạn khác hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ để chiếm đoạt người dưới 16 tuổi khỏi sự quản lý hợp pháp của cha mẹ, người giám hộ hoặc tổ chức. | Là hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp, giao nhận, mua, bán, đổi, chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi nhằm mục đích bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể, hoặc mục đích vô nhân đạo khác. |
Khách thể | Quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được bảo vệ, chăm sóc của trẻ em dưới 16 tuổi; trật tự an toàn xã hội. | Quyền nhân thân, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do của trẻ em dưới 16 tuổi; đồng thời xâm phạm nghiêm trọng đến đạo đức xã hội. |
Mặt khách quan | Hành vi chiếm đoạt trẻ em khỏi sự quản lý hợp pháp (không cần có yếu tố trao đổi, mua bán). | Hành vi mang tính mua bán, trao đổi trẻ em; thường gắn với yếu tố lợi ích vật chất hoặc phi vật chất. |
Mục đích | Không nhất thiết vì mục đích kinh tế, có thể vì mục đích cá nhân khác (như nuôi dưỡng, chiếm giữ, mâu thuẫn gia đình…). | Thường nhằm mục đích trục lợi hoặc khai thác trẻ em (tình dục, lao động cưỡng bức, lấy bộ phận cơ thể…). |
Chủ thể | Người từ đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự. | Người từ đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự. |
Khung hình phạt cơ bản | Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm theo khoản 1 Điều 153 Bộ luật Hình sự 2015. | Phạt tù từ 07 năm đến 12 năm theo khoản 1 Điều 151 Bộ luật Hình sự 2015. |
Khung hình phạt tăng nặng | Có thể bị phạt tù từ 10 đến 15 năm theo khoản 3 Điều 153 Bộ luật Hình sự 2015. | Có thể bị phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân theo khoản 3 Điều 151 Bộ luật Hình sự 2015. |
Tính chất nguy hiểm | Chủ yếu xâm phạm đến quyền quản lý và an toàn của trẻ em; mức độ nguy hiểm tập trung vào hành vi chiếm đoạt. | Mức độ nguy hiểm cao hơn, vì gắn liền với mục đích mua bán, trục lợi và bóc lột trẻ em. |
6. Bản án điển hình về Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi:
6.1. Bản án 05/2020/HS-ST ngày 28/04/2020 của TAND huyện A, tỉnh An Giang:
- Cơ quan xét xử:
Tòa án nhân dân huyện An Phú, tỉnh An Giang
- Trích dẫn nội dung:
Do phải làm ăn ở xa nên cha mẹ Cháu N (sinh ngày 20/3/2017) giao cháu lại cho bà nội là Nguyễn Thị T ngụ Ấp H, xã Đ, huyện A chăm sóc, nuôi dưỡng. Thái Thị Bích H là em chồng bà Thương, sống cạnh nhà bà Thương nên thường chơi đùa cùng cháu Nguyên.
Khoảng tháng 6/2019, H chủ động làm quen với Trần Tuấn V2 thông qua mạng xã hội FACEBOOK, sau đó cả hai thường xuyên liên lạc qua lại và phát sinh quan hệ tình cảm. Trong các lần trò chuyện, V2 tình cờ quen biết và cảm mến cháu N. H vờ kể hoàn cảnh cháu N đáng thương thì Vinh cho biết muốn nhận cháu N làm con nuôi để chăm sóc. Từ đó H nảy sinh ý định chiếm đoạt cháu N giao cho V2 làm con nuôi, để khi gặp khó khăn H sẽ dễ được V2 giúp đỡ về tiền bạc.
Khoảng 07 giờ ngày 01/11/2019, H vờ xin phép bà T dẫn cháu N đi chơi được bà T đồng ý. Tiếp đó H điều khiển xe môtô BKS 67L7-6285 chở cháu N đến Bệnh viện đa khoa khu vực tỉnh An Giang gửi xe môtô, rồi đón taxi đến khu vực Nghĩa trang Liệt sĩ thuộc huyện C, tỉnh An Giang giao cháu N cho V2 đem về nhà tại tỉnh Bến Tre.
Đến khoảng hơn 10 giờ cùng ngày, Hạnh điều khiển xe môtô BKS 67L7-6285 quay về nhà, và vờ không liên quan gì đến việc mất tích của cháu N.
Sau khi xác minh, Công an tiến hành mời Hạnh về trụ sở làm việc. Qua làm việc H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Khoảng 07 giờ ngày 01/11/2019, H vờ xin phép bà T dẫn cháu N đi chơi được bà T đồng ý. Tiếp đó H điều khiển xe môtô BKS 67L7-62x chở cháu N đến Bệnh viện đa khoa khu vực tỉnh An Giang gửi xe môtô, rồi đón taxi đến khu vực Nghĩa trang Liệt sĩ thuộc huyện C, tỉnh An Giang giao cháu N cho V2 đem về nhà tại tỉnh Bến Tre.”
- Quyết định của Tòa án:
Bị cáo Thái Thị Bích H 02 (hai) năm tù.
6.2. Bản án 06/2021/HS-ST ngày 22/02/2021 của TAND huyện Châu Phú, tỉnh An Giang:
- Cơ quan xét xử:
Tòa án nhân dân huyện Châu Phú, tỉnh An Giang
- Trích dẫn nội dung:
Khoảng 09 giờ ngày 01/9/2020, Nguyễn Thị Ái N dẫn Lương Phước Đăng (con ruột của N) đến Trường tiểu học “C” Khánh Hòa thuộc xã Khánh Hòa, huyện Châu Phú, để làm thủ tục nhập học cho Đăng. Tại đây, N và Đăng vào căn tin của trường ngồi ăn; cùng lúc Nguyễn Thị Ngọc Y, sinh năm 2015 đến xin thức ăn nên N cho Yến thức ăn.
Thấy Y đi lang thang một mình, N hỏi Phan Thị T (người bán hàng trong căn tin) “Bé Y là con của ai, sao đi lang thang một mình vậy”; T trả lời “Y là con của Nguyễn Hữu D nhà ở phía sau trường học, cha mẹ đã ly hôn, cha của Y thường xuyên uống rượu say, nên bỏ Y đi lang thang, không chăm sóc và không cho đi học”; N nói với T để xin Y về nuôi, T nói “Nhiều người xin nuôi Y nhưng D không cho”. Lúc này, N hỏi Y “Con chịu làm con nuôi của Cô không”; Y trả lời “Dạ chịu” thì N dẫn Y về nhà tại ấp Khánh Châu, xã Khánh Hòa, huyện Châu Phú.
Đến 11 giờ cùng ngày, N nhờ Nguyễn Thị Cẩm L (cháu chồng của N) chở N và Y đi mua quần áo cho Y, N kể cho L biết hoàn cảnh của Y và nói khi nào gia đình Y đi tìm thì điện thoại cho N sẽ đưa Y về giao lại cho gia đình Y.
Sau đó, N cùng Y đến thành phố Hồ Chí Minh thì Lương Phước L (chồng của N) ra rước gặp N và Y nên hỏi N: “Y là con của ai”, N kể cho L nghe về hoàn cảnh của Y và nói tự ý dẫn Y đi theo để làm con nuôi mà không xin ý kiến gia đình Y. L không đồng ý và kêu N dẫn Y về giao lại cho gia đình Y; cùng lúc L điện thoại cho N nói gia đình Y đang tìm Y, nên N đưa Y về giao lại cho Nguyễn Hữu D (cha ruột Y).
- Quyết định của Tòa án:
Bị cáo Nguyễn Thị Ái N: 02 (hai) năm tù. Cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 04 (bốn) năm kể từ ngày 22/02/2021.
6.3. Bản án 76/2021/HS-ST ngày 12/07/2021 của TAND thành phố P, tỉnh Gia Lai:
- Cơ quan xét xử:
Toà án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
- Trích dẫn nội dung:
Do không có khả năng sinh con nên vào khoảng 12 giờ 30 phút ngày 22-3-2021, lợi dụng lúc chị Phan Thị Yến N đang ngủ tại phòng trọ số 26 đường N, phường Phù Đổng, thành phố P, Nguyễn Lê Hoàng P đã lén lút chiếm đoạt cháu Phan Thiên T (sinh ngày 25-02-2021) là con của chị N, nhằm mục đích để nhận làm con nuôi.
Đến khoảng 19 giờ 20 phút cùng ngày, khi P đưa cháu Thư đi đến Thôn 3, xã Hòa Phú, thành phố B thì bị bắt giữ; cháu T được giao lại cho chị N.
Hành vi lén lút đưa cháu bé sơ sinh (sinh ngày 25-02-2021) là con của chị Phan Thị Yến N thoát khỏi sự quản lý, chăm nom của chị N như đã nêu trên của Nguyễn Lê Hoàng P là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quan hệ về quyền được chăm sóc, nuôi và sống chung với cha mẹ, quyền được bảo vệ của trẻ em, đã phạm vào tội: “Chiếm đoạt người dưới 16 tuổi” quy định tại khoản 1 Điều 153 Bộ luật Hình sự như bản Cáo trạng đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
- Quyết định của Tòa án:
Bị cáo Nguyễn Lê Hoàng P 03 (Ba) năm tù.
THAM KHẢO THÊM: