Tội cản trở việc thi hành án được quy định tại Điều 381 Bộ luật Hình sự năm 2015 là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý gây cản trở việc thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Hành vi này không chỉ xâm phạm hoạt động tư pháp mà còn làm suy giảm hiệu lực thi hành án, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, do đó bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật hình sự.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát chung về Tội cản trở việc thi hành án:
- 2 2. Cấu thành tội phạm của Tội cản trở việc thi hành án:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội cản trở việc thi hành án:
- 4 4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội cản trở việc thi hành án:
- 5 5. Phân biệt với Tội không thi hành án:
- 6 6. Hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành đối với Tội cản trở việc thi hành án:
1. Khái quát chung về Tội cản trở việc thi hành án:
1.1. Khái niệm:
Tội cản trở việc thi hành án là hành vi của người lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong hoạt động thi hành án cố ý thực hiện những hành vi trái pháp luật nhằm làm chậm trễ, đình trệ hoặc làm mất hiệu lực thi hành của bản án, quyết định của Tòa án. Đây là hành vi xâm phạm trật tự quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực thi hành án, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; đồng thời làm suy yếu hiệu lực của nền tư pháp.
Khác với hành vi thiếu trách nhiệm thông thường, Tội cản trở việc thi hành án mang tính cố ý và lợi dụng quyền lực. Tức người phạm tội biết rõ việc mình làm là trái pháp luật, nhưng vẫn cố tình thực hiện để trục lợi, bao che hoặc gây khó khăn cho bên được thi hành án.Do đó, người phạm tội thường là người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan thi hành án, tòa án, viện kiểm sát, công an hoặc chính quyền địa phương có trách nhiệm phối hợp cưỡng chế thi hành án.
1.2. Ý nghĩa:
- Thứ nhất: Ý nghĩa về mặt pháp lý. Quy định Tội cản trở việc thi hành án trong Bộ luật Hình sự 2015 có ý nghĩa pháp lý quan trọng, khẳng định rằng việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án là giai đoạn bắt buộc và có hiệu lực cưỡng chế cao nhất của quyền tư pháp. Nếu không có cơ chế xử lý hình sự đối với người cố tình cản trở quá trình này thì các bản án chỉ tồn tại trên giấy tờ và làm suy yếu nghiêm trọng tính nghiêm minh của pháp luật. Tội danh này vì thế được coi là “lá chắn pháp lý” bảo đảm rằng mọi phán quyết của Tòa án đều được thực thi công bằng, đúng pháp luật; qua đó củng cố hiệu lực và uy tín của nền tư pháp quốc gia.
- Thứ hai: Ý nghĩa về mặt quản lý Nhà nước. Việc hình sự hóa hành vi cản trở thi hành án thể hiện quyết tâm của Nhà nước trong việc xây dựng nền hành chính tư pháp liêm chính, kỷ luật và minh bạch. Quy định này không chỉ tạo cơ sở pháp lý để xử lý nghiêm cán bộ, công chức lợi dụng quyền hạn gây cản trở mà còn là biện pháp răn đe hữu hiệu nhằm ngăn ngừa hành vi lạm quyền, bao che hoặc dung túng sai phạm trong thi hành án. Thông qua đó, Nhà nước bảo đảm rằng mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi của mình, góp phần nâng cao hiệu quả và tính liêm chính của hệ thống thi hành án Việt Nam.
- Thứ ba: Ý nghĩa về mặt xã hội. Ở góc độ xã hội, Tội cản trở việc thi hành án có vai trò đặc biệt trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, nhất là người được thi hành án – những người đã được pháp luật công nhận quyền lợi nhưng đang bị cản trở trên thực tế. Việc xử lý nghiêm hành vi cản trở giúp tăng cường niềm tin của nhân dân vào sự công bằng và minh bạch của hệ thống tư pháp; đồng thời hạn chế các hành vi tiêu cực và nhũng nhiễu trong hoạt động thi hành án. Quy định này còn có ý nghĩa giáo dục, nhắc nhở đội ngũ cán bộ và công chức phải hành xử đúng pháp luật, có trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
1.3. Cơ sở pháp lý:
Tội cản trở việc thi hành án hiện nay đang được quy định tại Điều 381 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý cản trở việc thi hành án thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Dẫn đến người bị kết án, người phải chấp hành án bỏ trốn;
b) Dẫn đến hết thời hiệu thi hành án;
c) Dẫn đến người bị kết án, người phải chấp hành án, người có nghĩa vụ thi hành án tẩu tán tài sản và không thi hành được nghĩa vụ thi hành án với số tiền từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Gây thiệt hại từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Dẫn đến người bị kết án, người phải chấp hành án tiếp tục thực hiện tội phạm;
c) Dẫn đến người bị kết án, người phải thi hành án, người có nghĩa vụ thi hành án tẩu tán tài sản và không thi hành được nghĩa vụ thi hành án với số tiền 200.000.000 đồng trở lên;
d) Gây thiệt hại 200.000.000 đồng trở lên.
3. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội cản trở việc thi hành án:
2.1. Khách thể:
Tội cản trở việc thi hành án xâm phạm trực tiếp đến: Hoạt động đúng đắn và hiệu lực thi hành bản án của cơ quan tư pháp. Đồng thời, nó cũng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân; đặc biệt là quyền được bảo đảm thi hành án của người được thi hành.
2.2. Mặt khách quan:
Mặt khách quan của tội danh này là hành vi cản trở việc thi hành án. Người phạm tội đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để cố tình can thiệp, gây khó khăn, kéo dài hoặc vô hiệu hóa việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Các hành vi cụ thể có thể bao gồm:
- Gây sức ép với cán bộ thi hành án để trì hoãn hoặc không thực hiện cưỡng chế;
- Tạo điều kiện cho người phải thi hành án tẩu tán hoặc di chuyển tài sản đã bị kê biên;
- Không phối hợp hoặc cố tình làm chậm trễ hoạt động của cơ quan thi hành án;
- Ban hành văn bản hành chính trái thẩm quyền làm ảnh hưởng đến hiệu lực thi hành bản án.
Hành vi nêu trên phải gây hậu quả nghiêm trọng thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đây là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành cơ bản của tội này. Hậu quả có thể là:
- Người phải thi hành án bỏ trốn, hết thời hiệu thi hành án;
- Thiệt hại về tài sản từ 50 triệu đồng trở lên;
- Làm cho bản án không thể thi hành trên thực tế.
2.3. Chủ thể:
Chủ thể của Tội cản trở việc thi hành án là chủ thể đặc biệt, bao gồm người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội… Những người này có khả năng sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình để tác động, gây cản trở trái pháp luật đối với hoạt động thi hành án.
2.4. Mặt chủ quan:
Tội cản trở việc thi hành án được thực hiện với lỗi cố ý. Tức là biết rõ hành vi của mình gây cản trở, trì hoãn hoặc làm vô hiệu việc thi hành án nhưng vẫn thực hiện nhằm đạt được mục đích riêng (có thể vì tư lợi, bao che, né tránh trách nhiệm…).
3. Khung hình phạt của Tội cản trở việc thi hành án:
Tội cản trở việc thi hành án theo Điều 381 Bộ luật hình sự 2015 quy định những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội cản trở việc thi hành án:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội cản trở việc thi hành án được quy định tại khoản 2 Điều 381 Bộ luật Hình sự 2015 với khung hình phạt là phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:
- Phạm tội 02 lần trở lên: Tình tiết này thể hiện mức độ ngoan cố, tái phạm hoặc phạm tội nhiều lần trong cùng loại hành vi; cho thấy ý thức coi thường pháp luật và kỷ luật công vụ của người có chức vụ, quyền hạn. Việc lợi dụng chức vụ để cản trở thi hành án vốn đã là hành vi nghiêm trọng, hành vi này được thực hiện từ hai lần trở lên chứng minh người phạm tội có chủ ý kéo dài, tái diễn hành vi vi phạm và gây ảnh hưởng nặng nề đến hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án. Trong trường hợp này, người phạm tội bị áp dụng khung hình phạt từ 02 năm đến 05 năm tù; từ đó phản ánh quan điểm của Nhà nước về việc nghiêm trị hành vi lợi dụng quyền lực để làm suy yếu hoạt động tư pháp.
- Dẫn đến người bị kết án, người phải chấp hành án tiếp tục thực hiện tội phạm: Đây là tình tiết tăng nặng đặc biệt nguy hiểm, vì hậu quả không chỉ dừng lại ở việc cản trở thi hành án mà còn tạo điều kiện cho người bị kết án tiếp tục phạm tội mới. Hành vi cản trở trong trường hợp này thường là không ra quyết định thi hành án đúng hạn, không áp dụng biện pháp cưỡng chế kịp thời hoặc bao che, che giấu người phải thi hành án… khiến họ có cơ hội trốn tránh và phạm tội thêm. Do đó đây cũng là tình tiết định khung tăng nặng hình phạt của Tội cản trở việc thi hành án.
- Dẫn đến người bị kết án, người phải thi hành án, người có nghĩa vụ thi hành án tẩu tán tài sản và không thi hành được nghĩa vụ thi hành án với số tiền 200.000.000 đồng trở lên: Tình tiết này thể hiện hậu quả rất nghiêm trọng về mặt tài sản. Đây thường là các trường hợp chấp hành viên, cán bộ thi hành án, hoặc người có quyền phê duyệt cưỡng chế cố ý trì hoãn, không ký quyết định kê biên, phong tỏa tài sản hoặc tiết lộ thông tin thi hành án, giúp đương sự kịp thời chuyển nhượng, che giấu tài sản… Hậu quả là quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án bị xâm hại, Nhà nước thất thu và trật tự pháp luật bị xem thường.
- Gây thiệt hại 200.000.000 đồng trở lên: Tình tiết này phản ánh mức độ thiệt hại vật chất nghiêm trọng do hành vi cản trở thi hành án gây ra. Thiệt hại này có thể là thiệt hại cho Nhà nước, cho người được thi hành án hoặc cho bên có quyền lợi liên quan. Yếu tố “thiệt hại từ 200 triệu đồng trở lên” là căn cứ định khung, cho phép truy cứu ở khung hình phạt 02 năm đến 05 năm tù. Đây là hình thức xử lý tương xứng, đảm bảo nguyên tắc công bằng, răn đe và bảo vệ tính nghiêm minh của công tác thi hành án.
5. Phân biệt với Tội không thi hành án:
Nội dung | Tội cản trở việc thi hành án (Điều 381 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội không thi hành án (Điều 379 Bộ luật Hình sự 2015) |
Khách thể | Khách thể của tội phạm là việc thi hành đúng bản án, quyết định của Tòa án; quyền và lợi ích hợp pháp của các bên theo bản án, quyết định của Tòa án. | Khách thể của tội phạm là hoạt động tư pháp cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và người được thi hành án. |
Mặt khách quan | Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý cản trở việc thi hành án. Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. có 04 hậu quả có thể xảy ra như sau:
Tội phạm hoàn thành khi có một trong những hậu quả kể trên xảy ra, giữa hậu qảu kể trên và hành vi khách quan của tội phạm phải có quan hệ nhân quả. Hậu quả xảy ra xuất phát từ nguyên nhân do thực hiện hành vi khách quan của tội phạm. | Tội phạm được thể hiện ở hành vi cố ý không ra quyết định thi hành án hoặc không thi hành quyết định thi hành án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Người thực hiện hành vi trên chỉ bị coi là phạm tội khi thuộc một trong những trường hợp sau:
Dẫn đến người bị kết án, người phải chấp hành án, người có nghĩa vụ thi hành án tẩu tán tài sản và không thi hành được nghĩa vụ thi hành án với số tiền từ 50.000.000 đồng trở lên. Tội phạm hoàn thành khi người phạm tội thực hiện hành vi thuộc mặt khách quan thuộc một trong những trường hợp nêu trên. |
Chủ thể | Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, chỉ có những người có chức vụ, quyền hạn mới có thể là chủ thể của tội phạm này. Chủ thể của tội phạm phải thỏa mãn điều điện là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên. | Chủ thể của tội phạm này cũng là chủ thể đặc biệt, chỉ có những người có thẩm quyền trong việc ra quyết định thi hành án hoặc trong việc thi hành quyết định thi hành án mới có thể là chủ thể của tội phạm này. Ngoài ra, chủ thể của tội phạm phải thỏa mãn điều điện là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên. |
Mặt chủ quan | Người phạm tội cản trở việc thi hành án thực hiện hành vi phạm tội của mình là do cố ý, có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp. Động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. | Người phạm tội không thi hành án thực hiện hành vi phạm tội của mình là do cố ý. Động cơ tuy không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội danh này. |
Khung hình phạt | Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 05 năm. Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. |
Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Khung 3: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. |
6. Hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành đối với Tội cản trở việc thi hành án:
6.1. Kiến nghị sửa đổi hoặc bổ sung quy định về xử lý hành vi cản trở thi hành án:
Mặc dù Điều 381 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định tương đối rõ về tội cản trở việc thi hành án, song trên thực tế việc áp dụng còn gặp nhiều khó khăn do ranh giới giữa hành vi “cản trở thi hành án” và “thiếu trách nhiệm trong thi hành án” chưa thật sự rõ ràng. Nhiều vụ việc vi phạm mang tính lợi dụng quyền hạn, gây thiệt hại nghiêm trọng nhưng lại bị xử lý hành chính hoặc kỷ luật nội bộ, chưa đủ sức răn đe.
Do đó, cần sửa đổi và hướng dẫn cụ thể hơn các dấu hiệu định tính của tội phạm, đặc biệt là các yếu tố “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” và “cố ý cản trở”. Đồng thời, nên mở rộng chủ thể chịu trách nhiệm hình sự, không chỉ giới hạn trong hệ thống cơ quan thi hành án mà bao gồm cả những cá nhân, tổ chức khác có hành vi bao che, chi phối hoặc gây cản trở từ bên ngoài.
Bên cạnh đó, cần nghiên cứu bổ sung cơ chế tăng nặng hình phạt trong trường hợp hành vi cản trở thi hành án gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng như: làm thất thoát tài sản Nhà nước, làm sai lệch hồ sơ, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của nhiều người. Điều này sẽ góp phần hoàn thiện khung pháp lý, nâng cao tính răn đe và phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực thi hành án.
6.2. Giải pháp tăng cường giám sát, thanh tra hoạt động thi hành án:
Để ngăn chặn hành vi cản trở, cần tăng cường cơ chế kiểm tra, giám sát và thanh tra nội bộ trong hệ thống cơ quan thi hành án dân sự và hình sự. Việc giám sát phải được thực hiện thường xuyên, có trọng tâm, trọng điểm và tránh hình thức.
Một giải pháp hiệu quả trong trường hợp này là thiết lập hệ thống quản lý hồ sơ thi hành án điện tử và kết nối dữ liệu giữa Bộ Tư pháp, Viện kiểm sát và Tòa án để kiểm soát tiến độ, tránh tình trạng trì hoãn hoặc can thiệp trái phép vào quá trình thi hành. Việc công khai thông tin tiến độ thi hành án trên cổng thông tin điện tử cũng giúp người dân, doanh nghiệp và cơ quan báo chí tham gia giám sát cũng như tăng tính minh bạch và hạn chế tiêu cực.
6.3. Nâng cao đạo đức, trách nhiệm và năng lực của đội ngũ cán bộ thi hành án:
Một trong những giải pháp căn cơ để phòng ngừa và loại bỏ hành vi cản trở thi hành án là nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thi hành án cả về năng lực chuyên môn lẫn phẩm chất đạo đức. Cần xây dựng cơ chế tuyển chọn, đào tạo và đánh giá cán bộ chặt chẽ, minh bạch, ưu tiên tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp, tính liêm chính và ý thức phục vụ công lý.
Cơ quan thi hành án phải định kỳ tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ và tập huấn pháp luật mới, đặc biệt là các quy định về xử lý trách nhiệm hình sự trong hoạt động công vụ. Song song với đó cần thực hiện cơ chế đánh giá kết quả công tác gắn với trách nhiệm cá nhân, tránh tình trạng né tránh hoặc lợi dụng quyền hạn để trục lợi.
Ngoài ra, cần tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng và ý thức kỷ luật cho đội ngũ chấp hành viên; nhấn mạnh rằng việc thi hành án không chỉ là nhiệm vụ hành chính mà còn là trách nhiệm pháp lý và đạo đức nghề nghiệp. Khi người thực thi công vụ có bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thần trách nhiệm cao và được giám sát chặt chẽ thì hành vi cản trở thi hành án sẽ được ngăn ngừa triệt để hơn.
THAM KHẢO THÊM: