Tội bức cung được quy định tại Điều 374 Bộ luật Hình sự năm 2015 là một trong những tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, nhằm bảo vệ tính khách quan, công bằng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Hành vi bức cung không chỉ làm sai lệch sự thật vụ án mà còn xâm hại nghiêm trọng đến quyền con người, danh dự và nhân phẩm của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, do đó được pháp luật quy định xử lý nghiêm minh nhằm bảo đảm sự công bằng và tính liêm chính của nền tư pháp.
Mục lục bài viết
1. Khái quát chung về Tội bức cung:
1.1. Khái niệm:
Tội bức cung là hành vi của người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự (thường là điều tra viên, kiểm sát viên, người được giao nhiệm vụ hỏi cung) dùng thủ đoạn ép buộc người bị tạm giữ, bị can, bị cáo phải khai báo trái với ý chí của họ.
Nói cách khác, “bức cung” là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, hoặc các thủ đoạn tinh thần khác để buộc người bị hỏi cung phải nhận tội, cung cấp lời khai, thông tin, tài liệu không đúng sự thật.
Tội bức cung là tội phạm chỉ do chủ thể đặc biệt thực hiện (người tiến hành tố tụng có thẩm quyền) và được coi là hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan tư pháp, đồng thời xâm hại nghiêm trọng đến quyền con người, quyền bất khả xâm phạm về thân thể và danh dự, nhân phẩm của công dân.
1.2. Ý nghĩa:
Việc quy định tội bức cung trong Bộ luật Hình sự 2015 có nhiều ý nghĩa quan trọng cả về pháp lý, chính trị và xã hội; thể hiện rõ tinh thần thượng tôn pháp luật và bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp:
- Thứ nhất, bảo vệ quyền con người, quyền công dân: Quy định tội bức cung nhằm bảo đảm cho mọi cá nhân được đối xử nhân đạo, tôn trọng danh dự, nhân phẩm, phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và các Điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên.
- Thứ hai, đảm bảo tính khách quan và công bằng của hoạt động tố tụng: Khi nghiêm cấm và xử lý hành vi bức cung, pháp luật giúp bảo đảm mọi chứng cứ, lời khai phải được thu thập hợp pháp, trung thực, qua đó bảo đảm việc kết tội đúng người đúng tội, đúng pháp luật, tránh oan sai và bỏ lọt tội phạm.
- Thứ ba, nâng cao trách nhiệm của người tiến hành tố tụng: Quy định tội bức cung có tác dụng răn đe, giáo dục những người làm công tác điều tra, kiểm sát, xét xử. Buộc họ tuân thủ pháp luật, đề cao đạo đức nghề nghiệp và tinh thần thượng tôn pháp luật.
- Thứ tư, củng cố niềm tin của nhân dân đối với cơ quan tư pháp: Việc xử lý nghiêm hành vi bức cung góp phần tăng cường uy tín, minh bạch của cơ quan tiến hành tố tụng, củng cố niềm tin của người dân vào sự công bằng của hệ thống tư pháp và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1.3. Cơ sở pháp lý:
Tội bức cung hiện nay đang được quy định tại Điều 374 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào trong hoạt động tố tụng mà sử dụng thủ đoạn trái pháp luật ép buộc người bị lấy lời khai, người bị hỏi cung phải khai ra thông tin liên quan đến vụ án, vụ việc, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Đối với 02 người trở lên;
c) Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
d) Dùng nhục hình hoặc đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm người bị lấy lời khai, người bị hỏi cung;
đ) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;
e) Dẫn đến làm sai lệch kết quả khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử;
g) Ép buộc người bị lấy lời khai, người bị hỏi cung phải khai sai sự thật.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:
a) Làm người bị bức cung tự sát;
b) Dẫn đến bỏ lọt tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng; người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Làm người bị bức cung chết;
b) Dẫn đến làm oan người vô tội;
c) Dẫn đến bỏ lọt tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; người thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
5. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội bức cung:
2.1. Khách thể:
Bức cung là hành vi của người có thẩm quyền trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đã bằng các thủ đoạn trái pháp luật buộc người bị thẩm vấn phải khai sai sự thật.
Tội bức cung không chỉ xâm phạm đến uy tín của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án mà còn xâm phạm đến nguyên tắc xác định sự thật của vụ án. Do bị bức cung đã làm cho người bị thẩm vấn khai sai sự thật có thể dẫn đến làm oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm hoặc gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho các đương sự trong vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính.
Đối tượng tác động của tội phạm này chính là người bị bức cung. Khác với tội dùng nhục hình, người bị bức cung không chỉ đa số là bị can, bị cáo đang bị tạm giam, người bị kết án đang cải tạo trong các trại giam mà còn đối với những người tham gia tố tụng khác trong vụ án hình sự như: Người làm chứng, người có quyền và nghãi vụ liên quan… bị lấy lời khai.
Hiện nay, quyền bất khả xâm phạm thân thể được quy định tại các điều luật sau:
- Điều 19 Hiếp pháp 2013 có quy định: Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật.
- Khoản 1 Điều 20 của Hiến pháp 2013: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.
2.2. Mặt khách quan:
Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm là việc người tiến hành tố tụng dùng thủ đoạn trái pháp luật để ép buộc người bị lấy lời khai hoặc người bị hỏi cung phải khai báo thông tin liên quan đến vụ án, vụ việc.
Thẩm vấn (lấy lời khai, hỏi cung) là biện pháp điều tra công khai, trực diện nhằm làm rõ sự thật khách quan:
- Với bị can, bị cáo là làm rõ hành vi phạm tội;
- Với người làm chứng, người bị hại là làm rõ các tình tiết liên quan mà họ biết.
Đây là hoạt động thu thập chứng cứ theo Bộ luật Tố tụng hình sự, nên người làm công tác điều tra, truy tố, xét xử phải tuân thủ nghiêm nguyên tắc, thẩm quyền, trình tự thủ tục, bảo đảm tính hợp pháp và khách quan của tài liệu thu được qua thẩm vấn.
Bức cung là việc người đang điều tra, truy tố hoặc xét xử dùng các thủ đoạn trái pháp luật buộc người bị thẩm vấn phải khai theo ý chí của mình. Các thủ đoạn này có thể biểu hiện qua:
- Đe dọa, khủng bố hoặc uy hiếp tinh thần (dọa tra tấn, dọa bắt người thân, đe dọa đánh đập, cùm kẹp, bỏ đói…);
- Vặn vẹo, ngụy biện hoặc dồn ép để áp đặt lời khai;
- Gây sức ép tập thể, đưa ra đấu tố trước quần chúng hoặc trước người khác.
Bản chất của bức cung là áp lực tinh thần cưỡng bức ý chí khiến người bị thẩm vấn phải khai báo trái với sự thật.
Tuy nhiên, không phải mọi tác động nhằm khai thác thông tin đều cấu thành tội phạm. Pháp luật cho phép sử dụng biện pháp tâm lý trong đấu tranh, nhưng không được mang tính cưỡng bách, không được làm biến dạng ý chí người khai. Chỉ khi lợi dụng các biện pháp đó để biến thành thủ đoạn trái pháp luật, dẫn đến lời khai sai sự thật và gây hậu quả nghiêm trọng cho việc giải quyết vụ án, thì mới cấu thành tội bức cung.
Hậu quả có thể xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người bị lấy lời khai, người bị hỏi cung; song hậu quả không phải dấu hiệu bắt buộc của cấu thành. Tội phạm hoàn thành ngay từ thời điểm thực hiện hành vi bức cung trái pháp luật (cấu thành hình thức).
2.3. Chủ thể:
Chủ thể của Tội bức cung là chủ thể đặc biệt. Chỉ có thể là điều tra viên; kiểm sát viên làm công tác điều tra hoặc kiểm sát điều tra; thẩm phán, hội thẩm khi tiến hành xét xử tại phiên Toà.
Trong một số trường hợp, chủ thể của tội phạm còn có thể là cán bộ, chiến sĩ công an xã, phường khi họ phối hợp tham gia các hoạt động tư pháp (như tham gia bắt người khi có quyết định của cơ quan có thẩm quyền) mà có hành vi bức cung người bị thẩm vấn.
Ngoài ra, chủ thể của tội phạm phải là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên.
2.4. Mặt chủ quan:
Tội bức cung được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.
Động cơ phạm tội cũng không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này.
3. Khung hình phạt của Tội bức cung:
Tội bức cung theo Điều 374 Bộ luật Hình sự 2015 quy định những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
- Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 12 năm.
- Khung 4: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề từ 01 năm đến 05 năm.
4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội bức cung:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội bức cung được quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 374 Bộ luật Hình sự 2015:
4.1. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 2 Điều 374:
- Phạm tội 02 lần trở lên: Tình tiết này thể hiện mức độ nguy hiểm cao về hành vi và nhân thân người phạm tội. Người thực hiện hành vi bức cung từ hai lần trở lên (dù đối với cùng một người hay nhiều người khác nhau) cho thấy sự cố ý, coi thường pháp luật và kỷ luật nghề nghiệp. Hành vi lặp lại nhiều lần cho thấy người phạm tội không phải hành động bột phát mà là thói quen hoặc phương thức làm việc trái pháp luật, gây tổn hại nghiêm trọng đến quyền con người và tính liêm chính trong hoạt động tư pháp, do đó bị áp dụng mức phạt tù nặng hơn (từ 02 đến 07 năm).
- Đối với 02 người trở lên: Tình tiết này phản ánh phạm vi xâm hại mở rộng và hậu quả xã hội nghiêm trọng hơn so với trường hợp chỉ đối với một người. Việc dùng thủ đoạn trái pháp luật để ép buộc nhiều người cùng khai sai hoặc khai báo theo ý chí chủ quan của người hỏi cung, sẽ làm sai lệch nghiêm trọng kết quả điều tra và tính khách quan của vụ án, có thể dẫn đến nhiều oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm. Vì vậy, pháp luật coi đây là tình tiết định khung tăng nặng nhằm răn đe và ngăn ngừa tình trạng lạm dụng quyền lực trong hoạt động tố tụng.
- Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng: Đây là nhóm người yếu thế trong xã hội và có khả năng tự vệ kém hơn cả về thể chất lẫn tâm lý. Khi người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng thực hiện hành vi bức cung với những đối tượng này, thì mức độ vô nhân đạo và nguy hiểm cho xã hội càng cao. Pháp luật quy định tình tiết tăng nặng này nhằm bảo vệ nhóm dễ bị tổn thương, thể hiện tính nhân đạo và nguyên tắc tôn trọng quyền con người trong tố tụng hình sự. Người phạm tội có thể bị xử lý ở khung hình phạt nặng vì hành vi đã xâm phạm cả đạo đức công vụ lẫn giá trị nhân văn căn bản.
- Dùng nhục hình hoặc đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm người bị lấy lời khai, người bị hỏi cung: Tình tiết này cho thấy mức độ đặc biệt nghiêm trọng của hành vi. Khi người có thẩm quyền dùng bạo lực, tra tấn, gây đau đớn thể xác hoặc xúc phạm danh dự nhân phẩm của người bị hỏi cung thì không chỉ vi phạm nguyên tắc pháp luật mà còn trực tiếp xâm hại quyền bất khả xâm phạm về thân thể và nhân phẩm con người – một quyền hiến định. Việc kết hợp giữa bức cung và nhục hình thể hiện ý thức coi thường pháp luật, vi phạm nghiêm trọng quyền con người. Do đó cần phải xử lý nghiêm ở khung hình phạt cao.
- Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt: Trường hợp người phạm tội sử dụng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt như giả mạo chứng cứ, dàn dựng tình huống, gài bẫy lời khai hoặc gây áp lực tâm lý gián tiếp… thể hiện ý thức chủ động, tính toán và mức độ nguy hiểm cao của hành vi. Những thủ đoạn này thường khó phát hiện, làm cho việc kiểm tra, giám sát hoạt động hỏi cung gặp khó khăn, dẫn đến sai lệch kết quả tố tụng. Vì vậy, pháp luật quy định đây là tình tiết tăng nặng để trừng trị nghiêm khắc hành vi vi phạm.
- Dẫn đến làm sai lệch kết quả khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử: Đây là tình tiết phản ánh hậu quả trực tiếp của hành vi bức cung. Khi việc bức cung khiến cho người bị hỏi cung khai sai sự thật dẫn đến cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định sai lầm trong các giai đoạn tố tụng, thì hậu quả pháp lý và xã hội là vô cùng nghiêm trọng: Oan sai cho người vô tội, bỏ lọt tội phạm thật sự và gây mất niềm tin vào công lý. Vì vậy, hành vi này bị xử phạt nặng hơn để bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và phòng ngừa tái diễn.
- Ép buộc người bị lấy lời khai, người bị hỏi cung phải khai sai sự thật: Tình tiết này thể hiện rõ mục đích sai trái của hành vi bức cung. Khi người tiến hành tố tụng ép buộc người bị hỏi cung phải khai sai sự thật, nghĩa là cố ý làm sai lệch bản chất vụ án, dẫn đến việc xử lý sai người sai tội. Đây là hành vi xâm hại nghiêm trọng nhất đến sự thật khách quan và công bằng tư pháp. Nên pháp luật quy định xử lý ở khung hình phạt tăng nặng để bảo vệ tính trung thực của lời khai và tính khách quan của toàn bộ quá trình tố tụng.
4.2. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 3 Điều 374:
- Làm người bị bức cung tự sát: Hành vi bức cung dẫn đến việc người bị hỏi cung tự kết liễu đời mình là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, thể hiện mức độ tàn bạo và phi nhân tính của người phạm tội. Trong trường hợp này, không chỉ xâm phạm quyền con người mà còn tước đoạt quyền được sống – quyền cơ bản nhất của công dân. Pháp luật quy định mức hình phạt cao (từ 07 đến 12 năm tù) nhằm thể hiện thái độ không khoan nhượng với mọi hành vi bức cung gây chết người, bảo vệ tính mạng và danh dự của con người.
- Dẫn đến bỏ lọt tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng; người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng: Khi hành vi bức cung gây ra hậu quả là làm oan người vô tội hoặc bỏ lọt người phạm tội thật sự (dù chỉ trong nhóm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng) thì cũng đã làm sai lệch chức năng của tư pháp hình sự. Đây là hậu quả trực tiếp của việc ép buộc khai sai, làm sai lệch chứng cứ và được xem là tình tiết tăng nặng đáng kể trong khung phạt từ 07 đến 12 năm tù.
4.3. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 4 Điều 374:
- Làm người bị bức cung chết: Khi hậu quả của hành vi bức cung dẫn đến chết người thì mức độ nghiêm trọng đã đạt đến đỉnh điểm. Đây không còn là vi phạm tố tụng thuần túy mà là hành vi xâm phạm tính mạng công dân, cấu thành tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Người phạm tội phải chịu hình phạt từ 12 năm đến 20 năm tù hoặc tù chung thân, thể hiện sự nghiêm khắc tối đa của Nhà nước trong bảo vệ quyền sống và chống tra tấn.
- Dẫn đến làm oan người vô tội: Tình tiết này phản ánh hậu quả nghiêm trọng về pháp lý và xã hội. Khi hành vi bức cung khiến người vô tội bị kết án, bị tước đoạt tự do, danh dự, nhân phẩm, thậm chí cả tính mạng thì hệ quả không thể khắc phục được. Đây là một trong những hậu quả nghiêm trọng nhất mà pháp luật cần ngăn chặn, do đó hình phạt áp dụng có thể lên tới tù chung thân để bảo đảm tính răn đe tuyệt đối.
- Dẫn đến bỏ lọt tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; người thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng: Trường hợp này thể hiện hậu quả ở mức độ cực kỳ nghiêm trọng, khi do hành vi bức cung, cơ quan tiến hành tố tụng không phát hiện hoặc xử lý được tội phạm nguy hiểm cho xã hội, gây tổn hại lớn đến trật tự an ninh quốc gia và công lý. Vì vậy, pháp luật quy định khung hình phạt cao nhất từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân nhằm bảo đảm tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
5. Phân biệt Tội bức cung với Tội dùng nhục hình:
Tiêu chí | Tội dùng nhục hình (Điều 373 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội bức cung (Điều 374 Bộ luật Hình sự 2015) |
Khái niệm | Dùng nhục hình trong hoạt động tư pháp là tra tấn, đánh đập người bị điều tra, xét hỏi hoặc bị giam giữ, cũng như dùng những thủ đoạn tàn ác gây đau đớn về thể xác, gây tổn hại về sức khoẻ (như bắt nhịn đói, nhịn khác, ăn cơm nhạt, không cho ngủ…). | Bức cung là dùng thủ đoạn trái pháp luật trong hoạt động tố tụng ép buộc người bị lấy lời khai, người hỏi cung phải khai ra thông tin liên quan đến vụ án. |
Khách thể của tội phạm | Hai tội danh này xâm phạm đến hoạt động đúng đắn, uy tín của cơ quan tố tụng và cơ quan thi hành án; đồng thời xâm phạm đến quyền được tôn trọng và bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân. | |
Đối tượng tác động của tội phạm | Người bị áp dụng hoạt động tố tụng hoặc thi hành án hoặc đang bị thi hành các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở bắt buộc, đưa vào trại cai nghiện bắt buộc. | Người bị lấy lời khai, người bị hỏi cung như bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người làm chứng, các đương sự…. |
Hành vi nguy hiểm cho xã hội | Có những hành vi có tính chất hành hạ, gây đau đớn về thể xác hoặc bị đối xử tàn bạo hoặc bị hạ nhục nhân phẩm, danh dự của người khác bằng bất cứ hình thức nào. Ví dụ: tra tấn bằng vũ lực (đấm, đá bằng tay, chân hoặc sử dụng các vậy dụng như roi, gậy,…) và các hình thức tra tấn khác (bắt nhịn ăn, nhịn uống, cho ăn cơm thừa, canh cặn, không cho ngủ, bắt lao động nặng nhọc…). | Sử dụng những thủ đoạn không đúng với quy định pháp luật nhằm uy hiếp, gây ức chế hoặc làm khủng hoảng tinh thần của người bị thẩm vấn (nhưng không tác động đến thân thể của người đó) để họ phải khai ra thông tin liên quan đến vụ án. Thủ đoạn trái pháp luật được hiểu là những phương pháp, cách thức bị pháp luật cấm hoăc không quy định cho phép như:
|
Chủ thể của tội phạm | Người có chức vụ, quyền hạn nhất định trong hoạt động tố tụng hình sự, thi hành án và thi hành các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc như: Điều tra viên, kiểm sát viên, quản giáo, cán bộ quản lý trong trường giáo dưỡng… | Người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng. Cụ thể là thẩm quyền trong hoạt động hỏi cung, lấy lời khai trong hoạt động tố tụng như: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm… |
Hình thức lỗi | Lỗi cố ý trực tiếp | Lỗi cố ý |
Khung hình phạt | Khung 1: Phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 12 năm. Khung 4: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. | Khung 1: Phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 12 năm. Khung 4: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề từ 01 năm đến 05 năm. |
Động cơ | Động cơ phạm tội cũng không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm nhưng việc xác định động cơ của người phạm tội là rất cần thiết. Nếu người phạm tội vì động cơ cá nhân hoặc động xấu khác thì sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội vì động cơ nóng vội, muốn hoàn thành việc điều tra kết thúc vụ án. |
THAM KHẢO THÊM: