Dân tộc ta đã phải trải qua vô vàn khó khăn thử thách mới có thể giành được độc lập tự do từ tay những kẻ thù tàn bạo. Hôm nay hãy cùng chúng tôi nhìn lại những bản Tuyên ngôn vang danh của dân tộc nhé.
Mục lục bài viết
1. Bản tuyên ngôn đầu tiên của lịch sử Việt Nam:
1.1. Nội dung của Bài Nam Quốc Sơn Hà:
Theo các tài liệu lịch sử, Nam quốc sơn hà là bài thơ thần, được thần đọc giúp Lý Thường Kiệt đánh thắng quân Tống năm 1076. Bài thơ này được coi là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước Việt Nam, khẳng định chủ quyền của nước Việt Nam.
Nam quốc sơn hà vốn là một bài thơ bằng chữ Hán, bảy chữ, không có tên. Nam quốc sơn hà được những người biên soạn Tuyển tập thơ văn Việt Nam tập 2 (NXB Văn học, ấn hành năm 1976).
Nam quốc sơn hà là bài thơ bảy chữ, không rõ tác giả, nhưng có người cho là của Lý Thường Kiệt. Đây là bài thơ nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam, được coi là bản Tuyên ngôn Độc lập đầu tiên của Việt Nam.
Nếu ở hai câu đầu, tác giả khẳng định chắc nịch chủ quyền dân tộc là chân lý thiêng liêng, bất biến thì hai câu cuối là lời quyết chiến, quyết chiến quyết thắng quân xâm lược. Trong “Nam quốc sơn hà” Lý Thường Kiệt thể hiện rõ sự tự tin và lòng tự hào dân tộc. Điều này được thể hiện qua giọng điệu phóng khoáng và cách dùng từ “đế” trong nguyên tác của tác giả.
Như vậy, với tầm vóc của bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên, “Nam quốc sơn hà” vừa khẳng định chủ quyền lãnh thổ, vừa thể hiện niềm tin tất thắng là tất yếu dựa trên chân lý và chính nghĩa. Đó còn là sự thăng hoa của tâm hồn dân tộc được hun đúc từ lịch sử các cuộc kháng chiến chống xâm lược.
Bài thơ này không có tên, cái tên Nam quốc sơn hà do những người biên soạn Tuyển tập thơ văn Việt Nam tập 2 (NXB Văn học ấn hành năm 1976).
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
1.2. Hoàn cảnh ra đời:
Bản tuyên ngôn lịch sử bằng thơ này ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt.
Năm 1076, 30 vạn quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy sang xâm lược nước ta. Lý Thường Kiệt là vị tướng chỉ huy quân ta kiên cường chống giặc phương Bắc.
Ông lập phòng tuyến trên sông Như Nguyệt (còn gọi là sông Cầu) để ngăn giặc. Sau đó, ông điều quân bao vây vùng biển Quảng Ninh. Do chênh lệch về sức mạnh, quân Tống đã có lúc chọc thủng được tuyến phòng thủ sông Như Nguyệt.
Trước tình thế khó khăn, để động viên tinh thần quân sĩ, bày tỏ chí khí, Lý Thường Kiệt đã đọc bài thơ “thần”.
1.3. Địa điểm Lý Thường Kiệt đọc thơ:
Nơi Lý Thường Kiệt đọc bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam là đền thờ Trương Hống và Trương Hát ở bờ nam sông Như Nguyệt (nay là sông Cầu).
Để biết thêm chi tiết về nơi Lý Thường Kiệt đọc bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước Nam mời các bạn tham khảo bài viết: Lý Thường Kiệt đọc bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước Nam ở đâu.
2. Bản Tuyên Ngôn độc lập thứ 2 của Việt Nam:
Bình Ngô Đại Cáo là bản cáo trạng bằng chữ Hán do Nguyễn Trãi viết vào mùa xuân năm 1428, thay mặt Bình Định Vương Lê Lợi tuyên bố kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến với nhà Minh, khẳng định nền độc lập của Đại Việt. Đây được coi là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của nước Việt Nam.
Cái tên Bình Ngô Đại Cáo mang ý nghĩa tuyên bố chiến thắng quân Ngô xâm lược (Wo ở đây vừa là danh hiệu của Chu Nguyên Chương, vừa là nguồn gốc, tổ tiên của Chu Nguyên Chương – người sáng lập ra nhà Minh).
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cỏi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi.
Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim trả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa?
Nặng nề những nổi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?
Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông,
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.
Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cỏi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng
Quân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công.
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.
Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ
Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi!
Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.
2.2. Hoàn cảnh ra đời:
Năm 1427, nghĩa quân Lam Sơn đánh tan hai đạo quân viện binh nhà Minh do Liễu Thăng và Mộc Thạnh chỉ huy. Vương Thông đang cố thủ ở thành Đông Quan nghe tin, hoảng sợ viết thư xin hòa.
Lê Thái Tổ chấp thuận, sai sứ mang chiếu và vật phẩm sang nhà Minh, vua Minh sai Lê Bộ Thị Lang làm quan Lý Kỳ, phong Trần Cảo làm An Nam Quốc Vương, truất Bố Chính tại triều và rút quân về. Tháng 12 năm Kỷ Mùi, Vương Thông theo thỏa thuận với Bình Định, Vương Lê Lợi đem bộ binh vượt sông Nhị Hà, thủy quân theo sau. Vì quân Minh tàn bạo, có người khuyên Lê Lợi giết hết tàn quân nhưng Lê Lợi không nhận, cung cấp lương thực tiếp tế cho quân Minh trở về. Năm 1428, Lê Lợi bình định được quân Minh, liền sai Nguyễn Trãi thay mặt báo tin.
Tác giả thay mặt Lê Lợi tuyên bố trước toàn dân về sự kết thúc cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược, giành lại nền độc lập cho nước Đại Việt.
3. Bản Tuyên ngôn độc lập thứ 3 của dân tộc Việt Nam:
3.1. Nội dung của Bản Tuyên ngôn độc lập:
Bản Tuyên ngôn Độc lập này vừa là một văn kiện chính trị quan trọng của dân tộc, vừa là một tác phẩm văn học có giá trị to lớn. Theo Trần Dân Tiên, đó là “kết quả của bao hy vọng, nỗ lực và niềm tin của hơn hai mươi triệu người dân Việt Nam”. Tuyên ngôn Độc lập khẳng định quyền độc lập của dân tộc trên cơ sở công lý nhân quyền.
3.2. Hoàn cảnh ra đời:
Bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo và đọc trước công chúng tại vườn hoa Ba Đình (nay là quảng trường Ba Đình) ngày 2/9/1945 được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ ba trong lịch sử Việt Nam.
Bản tuyên ngôn này ra đời cùng với Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khi Việt Minh lợi dụng việc Nhật đầu hàng Đồng minh để tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên cả nước từ ngày 14-8-1945.
Trên đà thắng lợi của Tổng khởi nghĩa, sáng ngày 26-8-1945, tại 48 Hàng Ngang, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì cuộc họp Ban Thường vụ Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong số các quyết định của cuộc họp này, Thường vụ đã nhất trí chuẩn bị Tuyên ngôn độc lập và tổ chức mít tinh lớn tại Hà Nội để Chính phủ lâm thời ra mắt nhân dân, cũng là ngày nước Việt Nam chính thức tuyên bố độc lập và thành lập nước Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 30-8-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh mời một số người góp ý cho bản Tuyên ngôn Độc lập do Người soạn thảo. Ngày 31 tháng 8 năm 1945, Người bổ sung vào bản thảo Tuyên ngôn Độc lập.
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước hàng vạn đồng bào.