Hiến pháp là hệ thống các quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất quy định những vấn đề cơ bản nhất về chủ quyền quốc gia, chế độ chính trị, chính sách kinh tế, văn hóa, ... Vậy tòa án hiến pháp là gì? Mô hình Tòa Hiến pháp ở một số quốc gia như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Tòa án Hiến pháp là gì ?
Ở một số quốc gia phương Tây, do Quốc hội thành lập, có chức năng chủ yếu là bảo vệ các nguyên tắc của Hiến pháp, kiểm tra tính hợp hiến của các luật hay các văn bản quản lý. Ở mỗi nước, tòa án loại này được tổ chức dưới các hình thức khác nhau và về quyền hạn cũng có nhiều điểm đặc thù riêng. Ví dụ ở Pháp, tòa án hiến pháp được gọi là Hội đồng bảo hiến (Cour Constitutionelle). Nhiệm vụ của Hội đồng này là:
– Phán quyết về tính cách hợp hiến của các đạo luật, sắc luật và quy tắc hành chính.
– Tham gia ý kiến về các đề nghị sửa đổi Hiến pháp do Ủy ban Quốc hội chuyển giao.
2. Mô hình Tòa Hiến pháp ở một số quốc gia ?
2.1. Mô hình Tòa Hiến pháp ở Pháp:
Ở Pháp, Tòa án hiến pháp được gọi là Hội đồng bảo hiến (HĐBH). Điều 56 Hiến pháp năm 1958 của Pháp quy định: HĐBH gồm 9 thành viên do Tổng thống, Chủ tịch Thượng viện, Chủ tịch Hạ viện bổ nhiệm (mỗi người bổ nhiệm 3 thành viên), nhiệm kỳ 9 năm và không gia hạn. HĐBH thay đổi 1/3 thành viên sau 3 năm. Ngoài 9 thành viên kể trên, thành viên đương nhiên và vĩnh viễn là cựu Tổng thống Pháp. Chủ tịch HĐBH do Tổng thống bổ nhiệm. Chủ tịch có quyền quyết định nếu số phiếu bằng nhau.
Thành viên HĐBH không đồng thời là thành viên Chính phủ, Nghị viện, Hội đồng Kinh tế và xã hội. Điều 57 Hiến pháp quy định: “Không được kiêm nhiệm chức vụ hội viên Hội đồng bảo hiến hay chức vụ dân biểu”. Thành viên HĐBH không thể đảm nhiệm bất kỳ chức vụ gì của một cơ quan công cộng hoặc tham gia vào lĩnh vực mà có thể dễ ảnh hưởng đến quyết định của HĐBH, cũng không được tham gia vào bất kỳ một vị trí có trách nhiệm hoặc chức vụ trong các đảng chính trị hoặc các nhóm lợi ích.
Theo Hiến pháp năm 1958, HĐBH có 3 loại thẩm quyền chính:
Thẩm quyền xem xét các tranh chấp trong bầu cử (Nghị viện và Tổng thống) và trưng cầu ý dân: quyết định của HĐBH là quyết định cuối cùng bắt buộc thi hành với tất cả cơ quan nhà nước và không được khiếu nại, nhưng HĐBH thường không tự mình hành động, thẩm tra, giải thích hay phán quyết nếu không có yêu cầu.
Thẩm quyền tư vấn: HĐBH có quyền tham gia vào quá trình thiết lập vị trí Tổng thống khi vị trí này không thực thi được nhiệm vụ của mình, có quyền đưa ra ý kiến cho Tổng thống quyết định những biện pháp đặc biệt trong hoàn cảnh đặc biệt.
Thẩm quyền xem xét tính hợp hiến của các đạo luật trước khi công bố: tuy nhiên, chỉ xem xét vụ việc khi có đơn đề nghị của Tổng thống, Thủ tướng, Chủ tịch Thượng viện, Chủ tịch Hạ viện, 60 thượng nghị sĩ hoặc 60 hạ nghị sĩ.Ngoài ra, HĐBH có thể tham gia soạn thảo hoặc sửa đổi các đạo luật khi có sự tranh chấp về thẩm quyền giữa Nghị viện và Chính phủ. HĐBH có thể kiểm soát sự vi phạm của các đạo luật đã có hiệu lực (đạo luật được thông qua Hiến pháp năm 1958; đạo luật được thông qua sau năm 1958, có những quy định không thuộc phạm vi của lập pháp, nhưng Chính phủ lại không đệ trình vấn đề đó lên HĐBH).
Ở mô hình này, chỉ được giám sát tính hợp hiến của văn bản được phê chuẩn bởi nghị viện nhưng chưa được ban hành bởi tổng thống. Ưu điểm của mô hình là cho phép giám sát tính hợp hiến của văn bản quy phạm pháp luật được tiến hành ngay trước khi văn bản được ban hành nên hạn chế đáng kể số văn bản vi hiến, đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, đó cũng là nhược điểm chính của mô hình ở chỗ cơ quan bảo hiến có thể can thiệp quá sâu quy trình lập pháp của nghị viện.
2.2. Mô hình Tòa Hiến pháp ở Hoa Kỳ:
Ở Hoa Kỳ, bảo vệ Hiến pháp ở Hoa Kỳ được xem như chức năng tự nhiên của cơ quan tư pháp. Mặc dù sự kiểm tra tư pháp là một công cụ quyền lực mạnh nhất của Tòa án liên bang nhưng điều này không được quy định trong Hiến pháp Hoa Kỳ.
Tất cả Tòa án Liên bang đều có thể xem xét về sự phù hợp của đạo luật đối với Hiến pháp và từ chối áp dụng đạo luật đó nếu nó vi hiến và chỉ có Tòa án Liên bang có quyền xem xét về sự phù hợp của các điều khoản trong Hiến pháp của bang với Hiến pháp liên bang.
Mặc dù quyền tài phán Hiến pháp thuộc về các tòa án nhưng người ta hay nhắc đến vai trò của Tòa án Tối cao Mỹ (với 9 thẩm phán cao cấp do Tổng thống bổ nhiệm và Thượng nghị viện phê chuẩn với nhiệm kỳ suốt đời) vì trong một vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án Liên bang, hai bên bao giờ cũng đem việc tranh tụng ra trước cơ quan tư pháp cao nhất, phán quyết chung thẩm do vị thẩm phán cao nhất đưa ra.
Tòa án chỉ có quyền tuyên bố đạo luật không hợp hiến sẽ không được áp dụng trong vụ án cụ thể chứ không có quyền tuyên bố hủy bỏ đạo luật đó. Như vậy, về nguyên tắc, hiệu lực phán quyết của Tòa án chỉ giới hạn trong các vụ án cụ thể. Tuy nhiên, có một nguyên tắc bổ sung cho sự thiếu hụt hiệu lực toàn vẹn của các phán quyết Hiến pháp là nguyên tắc xác định việc giải thích Hiến pháp của tòa án tối cao liên quan đến tất cả các tòa án cấp dưới. Mặc dù về nguyên tắc, tòa án không có quyền hủy bỏ một đạo luật bất hợp hiến, đạo luật đó vẫn tồn tại, nhưng việc tòa án từ chối áp dụng một đạo luật bất hợp hiến trong trường hợp cụ thể trên thực tế là đã vô hiệu hóa đạo luật đó. Với truyền thống tôn trọng án lệ, trong những trường hợp tương tự, nếu đương sự viện dẫn đạo luật đã bị tòa án tuyên bố bất hợp hiến, tòa án thụ lý vụ án sẽ từ chối áp dụng nó. Tòa án Tối cao Mỹ chú trọng bảo vệ các quyền tự do và bình đẳng của công dân thông qua việc kiểm tra tính hợp hiến trong các phán quyết của tòa án, đặc biệt trong lĩnh vực hình sự), các quyết định hành chính và các văn bản quy phạm pháp luật.
Ngay từ năm 1937, Thẩm phán Cardozzo tuyên bố: “Điều khoản về thủ tục phù hợp do pháp luật quy định (dueprocess of law) chứa đựng các quyền gắn liền với quan niệm tự do trong khuôn khổ và tất cả các quyền có nguồn gốc từ truyền thống và lương tâm của dân tộc Mỹ được coi như các quyền cơ bản. Trên cơ sở đó, tất cả các quyền đã được thừa nhận trong 10 sửa đổi, bổ sung Hiến pháp Mỹ đầu tiên và cả một số quyền mới được đưa ra (ví dụ quyền được bảo vệ đời tư) đã được gộp vào trong nguyên tắc “due process of law” và có hiệu lực đối với Nhà nước liên bang và chính quyền các bang. Trên cơ sở đó đã có rất nhiều án lệ được xây dựng theo tinh thần tiến bộ về quyền tự do tôn giáo, tự do ngôn luận và các quyền trong thủ tục tố tụng hình sự.
Nguyên tắc bảo hộ quyền bình đẳng trước pháp luật được mở rộng áp dụng đối với các quyền chính trị và quyền bào chữa. Về quyền bình đẳng giới, thiếu quy định cụ thể trong Hiến pháp nhưng Chánh án Burger (1969 – 1986) và dưới thời Chánh án Rehnquist (1986 – nay), Tòa án Tối cao đã phát triển án lệ theo xu hướng bảo vệ các quyền của phụ nữ, các hành vi phân biệt đối xử căn cứ vào giới tính đều bị coi là trái Hiến pháp.
Đây là mô hình giao cho tòa án tư pháp xem xét tính hợp hiến của các đạo luật thông qua việc giải quyết các vụ việc cụ thể, dựa vào các đơn kiện của đương sự, các sự kiện pháp lý cụ thể mà bảo vệ Hiến pháp. Mô hình có ưu điểm là bảo hiến một cách cụ thể vì nó liên quan đến từng vụ việc cụ thể.
Nhưng mô hình này lại có 2 nhược điểm lớn: giao quyền bảo hiến cho tòa án các cấp nên thủ tục dài dòng; phán quyết của tòa án về tính hợp hiến chỉ có hiệu lực ràng buộc đối với các bên tham gia tố tụng và khi một đạo luật được tòa án xác định là trái Hiến pháp thì đạo luật đó không còn giá trị áp dụng và chỉ có hiệu lực bắt buộc đối với các tòa án cấp dưới (nếu là phán quyết của Tòa án tối cao thì có giá trị bắt buộc đối với cả hệ thống tư pháp). Nghĩa là tòa án không có thẩm quyền hủy bỏ đạo luật bị coi là trái với Hiến pháp và về hình thức đạo luật đó vẫn còn hiệu lực mặc dù trên thực tế sẽ không được tòa án áp dụng.
2.3. Mô hình Tòa Hiến pháp ở Liên bang Nga:
Tòa án Hiến pháp Liên bang Nga là một minh chứng góp phần đưa Liên bang Nga phát triển như một nhà nước dân chủ và pháp quyền. Đối với nước Nga, Tòa án Hiến pháp là một chế định hoàn toàn mới. Lần đầu tiên trong lịch sử, từ năm 1991 ở Nga xuất hiện cơ quan có khả năng hạn chế quyền lực của các cơ quan lập pháp và hành pháp trên cơ sở Hiến pháp.
Theo quy định của Luật Liên bang Nga về tòa án Hiến pháp ngày 08/02/2001, Tòa án Hiến pháp Liên bang Nga Bao gồm 19 thẩm phán, có nhiệm kỳ 15 năm. Điều 128 Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993 quy định thẩm phán Tòa án Hiến pháp do Hội đồng Liên bang bổ nhiệm theo đề nghị của Tổng thống. Chánh án Tòa án Hiến pháp do các thẩm phán của Tòa án Hiến pháp bầu. Trên thực tế, thành phần của Tòa án Hiến pháp Liên bang Nga gồm những nhà luật học có năng lực, trình độ cao, bảo đảm cho các quyết định của Tòa án Hiến pháp mang tính khách quan và có cơ sở khoa học.
Theo Điều 127 Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993, Tòa án Hiến pháp có thẩm quyền rất rộng. Khi có yêu cầu của Tổng thống, của 1 trong 2 Viện thuộc Nghị viện Liên bang hoặc của 1/5 số thành viên của 2 viện, của Chính phủ, của 1 trong 2 tòa án tối cao khác của Liên bang, của cơ quan lập pháp hoặc hành pháp của đơn vị lãnh thổ thuộc Liên bang; Tòa án Hiến pháp có quyền kiểm tra, giám sát tính hợp hiến của luật, các văn bản quy phạm pháp luật khác của Liên bang, của bất kỳ đơn vị lãnh thổ nào thuộc Liên bang cũng như tính hợp hiến của các điều ước quốc tế từ khi chưa có hiệu lực.
Tại Liên bang Nga, Tòa án Hiến pháp là một cơ quan nằm trong hệ thống tư pháp. Luật về hệ thống Tòa án của Nga quy định Tòa án Hiến pháp nằm trong hệ thống Tòa án cấp liên bang. Do đặc thù của nhà nước liên bang, nên ở mỗi bang của Nga đều thành lập các Tòa án Hiến pháp với mô hình tương tự như của nhà nước liên bang.
Với mục đích bảo vệ những nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp, quyền cơ bản của con người và công dân, bảo đảm tính tối cao và hiệu lực trực tiếp của Hiến pháp trên toàn lãnh thổ Liên bang Nga, Tòa án Hiến pháp có các thẩm quyền sau:
- Xem xét tính hợp hiến của các luật Liên bang, văn bản pháp quy của Tổng thống Nga, Hội đồng Liên bang, Duma Quốc gia, Chính phủ Nga; Hiến pháp các nước cộng hòa, Điều lệ của các chủ thể cấu thành Liên bang (sau đây gọi chung là các bang), luật và những văn bản quy phạm pháp luật khác của các bang; thỏa thuận giữa các cơ quan nhà nước Liên bang với các bang và thỏa thuận giữa các bang với nhau; các điều ước quốc tế của Nga mà chưa có hiệu lực.
- Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền: giữa các cơ quan quyền lực nhà nước Liên bang, giữa cơ quan quyền lực nhà nước Liên bang và các cơ quan của bang; giữa các cơ quan nhà nước cao nhất của các bang.
- Xem xét tính hợp hiến của luật được áp dụng trong một vụ việc cụ thể: Khi có khiếu nại về vi phạm quyền hiến định và quyền tự do của công dân hoặc theo yêu cầu của Tòa án.
- Giải quyết vấn đề về khả năng thực thi quyết định của cơ quan quốc tế về bảo vệ quyền và tự do của con người theo yêu cầu của cơ quan hành pháp liên bang được trao thẩm quyền trong lĩnh vực bảo vệ lợi ích của Liên bang Nga khi xem xét tại các cơ quan quốc tế về bảo vệ quyền và tự do của con người các khiếu nại chống lại Liên bang Nga trên cơ sở một hiệp ước quốc tế.
- Giải thích Hiến pháp Liên bang;
- Đưa ra kết luận về việc tuân thủ quy trình buộc tội Tổng thống Liên bang Nga về tội phản quốc hoặc phạm một tội phạm nghiêm trọng khác;
- Kiểm tra việc tuân thủ Hiến pháp Liên bang Nga của vấn đề được đưa ra trưng cầu dân ý;
- Đưa ra các sáng kiến lập pháp về các vấn đề thuộc thẩm quyền của mình;
- Thực hiện những quyền hạn khác do Hiến pháp, hoặc những bộ luật khác quy định.
- Nhằm phát huy tối đa vai trò của một cơ quan bảo hiến, Tòa án Hiến pháp phải được tổ chức một cách chặt chẽ cùng các Thẩm phán uy tín, được tuyển chọn và bổ nhiệm theo một quy trình đặc biệt.