Việc xử phạt vi phạm hành chính ngoài mục đích trừng trị người vi phạm còn hướng đến mục tiêu giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật. Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ lại có ý nghĩa quyết định trong việc cá thể hóa, phân hóa mức độ trách nhiệm hành chính. Dưới đây là các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng khi xử phạt vi phạm về giao thông?
Mục lục bài viết
1. Nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính:
Theo pháp luật hiện hành thì nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính quy định tại Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 cụ thể như sau:
Điều 3. Nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính
1. Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính bao gồm:
a) Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật;
b) Việc xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành nhanh chóng, công khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật;
c) Việc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng;
d) Chỉ xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính do pháp luật quy định.
Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần.
Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt về hành vi vi phạm hành chính đó.
Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính hoặc vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm;
đ) Người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính;
e) Đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân.
2. Nguyên tắc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính bao gồm:
a) Cá nhân chỉ bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính nếu thuộc một trong các đối tượng quy định tại các điều 90, 92, 94 và 96 của Luật này;
b) Việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính phải được tiến hành theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều này;
c) Việc quyết định thời hạn áp dụng biện pháp xử lý hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, nhân thân người vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng;
d) Người có thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính. Cá nhân bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính.
Về nguyên tắc xử phạt tiền quy định tại điều 23
Điều 23. Phạt tiền
1. Mức phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính từ 50.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng đối với cá nhân, từ 100.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng đối với tổ chức, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 24 của Luật này.
Đối với khu vực nội thành của thành phố trực thuộc trung ương thì mức phạt tiền có thể cao hơn, nhưng tối đa không quá 02 lần mức phạt chung áp dụng đối với cùng hành vi vi phạm trong các lĩnh vực giao thông đường bộ; bảo vệ môi trường; an ninh trật tự, an toàn xã hội.
2. Chính phủ quy định khung tiền phạt hoặc mức tiền phạt đối với hành vi vi phạm hành chính cụ thể theo một trong các phương thức sau đây, nhưng khung tiền phạt cao nhất không vượt quá mức tiền phạt tối đa quy định tại Điều 24 của Luật này:
a) Xác định số tiền phạt tối thiểu, tối đa;
b) Xác định số lần, tỷ lệ phần trăm của giá trị, số lượng hàng hóa, tang vật vi phạm, đối tượng bị vi phạm hoặc doanh thu, số lợi thu được từ vi phạm hành chính.
Căn cứ vào Khoản 9 Điều 1 Luật Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi 2020 được quy định cụ thể như sau:
Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính
…
9. Sửa đổi, bổ sung … khoản 4 Điều 23 như sau:
…
4. Mức tiền phạt cụ thể đối với một hành vi vi phạm hành chính là mức trung bình của khung tiền phạt được quy định đối với hành vi đó; nếu có tình tiết giảm nhẹ thì mức tiền phạt có thể giảm xuống nhưng không được thấp hơn mức tối thiểu của khung tiền phạt; nếu có tình tiết tăng nặng thì mức tiền phạt có thể tăng lên nhưng không được vượt quá mức tối đa của khung tiền phạt.
2. Quy định về tình tiết giảm nhẹ và tình tiết tăng nặng:
Căn cứ theo quy định tại điều 9, điều 10 tại Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 quy định về các tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ cụ thể như sau:
Thứ nhất, quy định về các tình tiết giảm nhẹ bao gồm các tình tiết như sau:
– Người vi phạm hành chính đã có hành vi ngăn chặn, làm giảm bớt hậu quả của vi phạm hoặc tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại;
– Người vi phạm hành chính đã tự nguyện khai báo, thành thật hối lỗi; tích cực giúp đỡ cơ quan chức năng phát hiện vi phạm hành chính, xử lý vi phạm hành chính;
– Vi phạm hành chính trong tình trạng bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người khác gây ra; vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
-Vi phạm hành chính do bị ép buộc hoặc bị lệ thuộc về vật chất hoặc tinh thần;
– Người vi phạm hành chính là phụ nữ mang thai, người già yếu, người có bệnh hoặc khuyết tật làm hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
– Vi phạm hành chính vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không do mình gây ra;
– Vi phạm hành chính do trình độ lạc hậu;
Thứ hai, những tình tiết tăng nặng bao gồm những tình tiết như sau:
– Vi phạm hành chính có tổ chức;
– Vi phạm hành chính nhiều lần; tái phạm;
– Xúi giục, lôi kéo, sử dụng người chưa thành niên vi phạm; ép buộc người bị lệ thuộc vào mình về vật chất, tinh thần thực hiện hành vi vi phạm hành chính;
– Sử dụng người biết rõ là đang bị tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi để vi phạm hành chính;
– Lăng mạ, phỉ báng người đang thi hành công vụ; vi phạm hành chính có tính chất côn đồ;
– Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vi phạm hành chính;
– Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, thiên tai, thảm họa, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để vi phạm hành chính;
– Vi phạm trong thời gian đang chấp hành hình phạt của bản án hình sự hoặc đang chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính;
– Tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm hành chính mặc dù người có thẩm quyền đã yêu cầu chấm dứt hành vi đó;
– Sau khi vi phạm đã có hành vi trốn tránh, che giấu vi phạm hành chính;
– Vi phạm hành chính có quy mô lớn, số lượng hoặc trị giá hàng hóa lớn;
– Vi phạm hành chính đối với nhiều người, trẻ em, người già, người khuyết tật, phụ nữ mang thai.
3. Tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trong lĩnh vực giao thông:
Tính tới thời điểm hiện tại, Nghị định 100/2019-NĐ/CP nhìn chung đã và đang phát huy tác dụng, nâng cao được ý thức chấp hành Luật giao thông đường bộ của người dân cũng như đủ tính răn đe để một phần nào lan tỏa đến cộng đồng giúp phòng ngừa tai nạn giao thông.
Tuy nhiên, về nguyên tắc xử lý vi phạm Nghị định 100/2019/NĐ-CP quy định về mức xử phạt trong lĩnh vực giao thông vẫn áp dụng các nguyên tắc chung theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính 2012, khi ra quyết định xử phạt hành chính người có thẩm quyền xử phạt vẫn căn cứ vào vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng. Bởi lẽ trong quá trình tham gia giao thông có nhiều người điều khiển phương tiện vì lý do khách quan, lý do bất khả kháng dẫn tới vi phạm, hoặc có những người điều khiển phương tiện cố tình vi phạm hay đã từng vi phạm nhưng vẫn tiếp tục vi phạm và gây ra hậu quả nghiệm trọng.
Ví dụ về tình tiết giảm nhẹ trong lĩnh vực giao thông: Chị Nguyễn Thị A điều khiển phương tiện không chú ý quan sát gây ra tai nạn giao thông cho chị Trần Thị B. Sau khi gây ra tai nạn chị A đã chủ động liên hệ với cảnh sát giao thông đến hiện trường để xử lý, ngoài ra đã kịp thời đưa chị B đi bệnh viện để điều trị vết thương, thực hiện về vấn đề bồi thường đầy đủ, và thiện chí.Trong quá trình giải quyết sự việc, chị A có thái độ thiện chí làm giảm bớt hậu quả của vi phạm hoặc tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại là tình tiết giảm nhẹ theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính.
Ví dụ về tình tiết tăng nặng trong lĩnh vực giao thông: Anh B có hành vi chạy điều khiển phương tiện xe máy vượt quá tốc độ, lạng lách, đánh võng khi tham gia giao thông. Anh B bị cảnh sát giao thông ra hiệu lệnh dừng xe để xử lý, nhưng A không chấp hành hiệu lệnh dừng xe, có hành vi chống trả và gây khó khăn cho cảnh sát giao thông khi xử lý vi phạm hành chính.