Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là một chế định quan trọng trong pháp luật hình sự Việt Nam, các tình tiết này thể hiện nguyên tắc nhân đạo của nhà nước ta với người phạm tội. Dưới đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tai nạn giao thông.
Mục lục bài viết
1. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tai nạn giao thông:
Hiện nay, căn cứ theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, có ghi nhận về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nói chung và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại nạn giao thông nói riêng. Theo đó, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tai nạn giao thông có thể kể đến như sau:
– Người phạm tội đã thực hiện các biện pháp ngăn chặn hoặc các biện pháp làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
– Người phạm tội tự nguyện sửa chữa hoặc tự nguyện bồi thường thiệt hại và khắc phục hậu quả theo quy định của pháp luật với nạn nhân;
– Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
– Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
– Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết trong quá trình bắt giữ người phạm tội;
– Phạm tội trong trường hợp bị kích động mạnh về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
– Phạm tội xuất phát từ hoàn cảnh khó khăn đặc biệt mà không phải do mình tự gây ra;
– Phạm tội nhưng chưa gây ra thiệt hại hoặc gây ra thiệt hại không lớn trên thực tế;
– Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức dưới bất kỳ hình thức nào;
– Phạm tội lần đầu và phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng theo quy định của pháp luật;
– Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi mà không phải do lỗi của mình gây ra;
– Phạm tội do lạc hậu, cổ hủ phong kiến;
– Đối tượng phạm tội được xác định là người phụ nữ có thai, người cao tuổi với độ tuổi từ đủ 70 tuổi trở lên, người phạm tội được xác định là các đối tượng khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng theo quy định của pháp luật về khuyết tật;
– Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi;
– Người phạm tội tự thú tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
– Người phạm tội thành khẩn khai báo và có dấu hiệu ăn năn hối cải, tích cực hợp tác với cơ quan chức năng trong việc phát hiện tội phạm và trong quá trình giải quyết vụ án;
– Người phạm tội đã có hành vi lập công chuộc tội;
– Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất và chiến đấu, có thành tích suất sắc trong quá trình học tập và công tác;
– Người phạm tội là người có công với cách mạng, hoặc người phạm tội được xác định là cha mẹ, vợ chồng hoặc con gái của liệt sĩ.
Có thể nói, trên đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tai nạn giao thông. Trong quá trình quyết định hình phạt căn cứ theo Điều 260 của Bộ luật hình sự năm 2015, thì tòa án sẽ xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội trên đây. Các tình tiết được tòa án được coi là tình tiết giảm nhẹ thì cần phải được ghi rõ trong bản án.
2. Các tình tiết giảm nhẹ có được coi là căn cứ quyết định hình phạt trong tai nạn giao thông không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định về các căn cứ để quyết định hình phạt trong quá trình quyết định hình phạt của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Theo đó, trong quá trình quyết định hình phạt đối với hành vi gây tai nạn giao thông thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần phải xem xét đến các căn cứ sau:
– Tòa án cần cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội;
– Tòa án cần căn cứ vào nhân thân của người phạm tội;
– Căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự;
– Căn cứ vào các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự;
– Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án cần phải căn cứ vào tình hình tài sản và khả năng thi hành án của người phạm tội.
Như vậy có thể nói, một trong những căn cứ để tòa án quyết định hình phạt cho người phạm tội nói chung và người có hành vi gây tai nạn giao thông nói riêng cần phải dựa vào các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có liên quan theo như phân tích ở trên.
3. Gây tai nạn giao thông có hai tình tiết giảm nhẹ có được hưởng án treo không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 2 của Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành (sau được sửa đổi tại Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo), có quy định về điều kiện cho người bị kết án phạt tù được hưởng án treo. Theo đó, hành vi gây tai nạn giao thông cấu thành tội phạm tại Điều 260 của Bộ luật hình sự năm 2015 sẽ được hưởng án treo khi đáp ứng được các điều kiện cơ bản sau:
Thứ nhất, bị phạt tù không quá 03 năm.
Thứ hai, người bị phạt tù có nhân thân tốt, chấp hành tốt các chính sách và pháp luật của nhà nước, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú và nơi làm việc. Đối với những người đã bị kết án tuy nhiên thuộc trường hợp được coi là không có án tích, người bị kết án nhưng chưa được xóa án tích theo quy định của pháp luật, người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật mà đến nay người phạm tội đã quá thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc chưa bị xử lý kỷ luật theo quy định của pháp luật, nếu xét thấy hành vi và tính chất cùng với mức độ tội phạm mới được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, hoặc người phạm tội được xác định là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án và có đầy đủ các điều kiện khác thì có thể xem xét được hưởng án treo. Đối với những người bị kết án và vụ án được tách ra để giải quyết trong nhiều giai đoạn khác nhau và có đầy đủ các điều kiện khác thì cũng có thể được xem xét cho hưởng án treo.
Thứ ba, có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó phải có ít nhất một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, và không có các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015. Nếu trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tuy nhiên số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ 02 tình tiết trở lên, trong đó phải có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Thứ tư, người phạm tội phải có nơi cư trú rõ ràng hoặc có nơi làm việc ổn định để các cơ quan có thể giám sát và giáo dục.
Thứ năm, xét thấy không cần thiết phải bắt buộc người có hành vi vi phạm chấp hành hình phạt tù nếu xét thấy người phạm tội có đầy đủ khả năng tự cải tạo và việc cho họ hưởng án treo là hành vi không gây nguy hiểm cho xã hội và không ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự.
Thứ sáu, thì xem xét và quyết định cho các bị cáo được gần anh treo theo quy định của pháp luật thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền là tòa án cần phải xem xét một cách kỹ lưỡng và đưa ra các điều kiện chặt chẽ để đảm bảo cho việc hưởng án treo phù hợp với quy định của pháp luật.
Như vậy, hành vi gây tai nạn giao thông có 02 tình tiết giảm nhẹ có thể sẽ được hưởng án treo nếu đáp ứng được tất cả các điều kiện còn lại.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
– Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành;
– Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo.