Trong kho tàng văn học nhân loại, chúng ta thấy mỗi dân tộc đều có một nền văn học riêng, một truyền thống văn học khác nhau. Sự khác biệt nằm ở bản sắc dân tộc của văn học. Trong bài viết dưới đây, các độc giả hãy cùng có thời gian phân tích, nghiên cứu về tính dân tộc và sự thể hiện tinh thần dân tộc trong văn học.
Mục lục bài viết
1. Dân tộc là gì?
Dân tộc là một cộng đồng người ổn định được hình thành trong lịch sử, tạo nên một quốc gia dựa trên một cộng đồng bền vững về các mặt: lãnh thổ quốc gia, kinh tế, ngôn ngữ, truyền thống, văn hóa và đặc điểm tâm lý, quốc tịch và tên gọi của dân tộc.
Các thành viên trong cộng đồng của một dân tộc sử dụng một ngôn ngữ chung (tiếng mẹ đẻ) để giao tiếp với nhau. Các thành viên có chung đặc điểm về văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần, tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc.
Dân tộc được hiểu theo nghĩa cộng đồng quốc gia dân tộc, đó là một cộng đồng chính trị – xã hội do nhà nước lãnh đạo được tạo ra trên một vùng lãnh thổ chung, ví dụ: người Việt Nam, người Trung Quốc
2. Hiểu như thế nào về tính dân tộc?
Tính dân tộc là một đặc điểm quan trọng về mặt xã hội văn học. Mỗi quốc gia có lối sống, thế giới quan và hệ thống giá trị riêng, được định hình bởi truyền thống văn hóa, phong tục, tâm lý và ngôn ngữ. Tính dân tộc có thể được hiểu là những đặc điểm nổi bật của cộng đồng con người có chung một lãnh thổ, ngôn ngữ, cách làm việc và quy tắc chính trị trong một lịch sử lâu dài. Tính cách dân tộc là “những đặc điểm lặp đi lặp lại tạo nên hình ảnh tinh thần của một quốc gia”.
Tính dân tộc thể hiện ở tất cả các yếu tố, từ nội dung đến hình thức sáng tác văn học. Về nội dung, dễ nhận thấy tính dân tộc biểu hiện chủ yếu là sự phản ánh “màu sắc” dân tộc về thiên nhiên cảnh vật, đời sống vật chất và tinh thần xã hội. Khi đọc tác phẩm của một dân tộc, ta như được sống cuộc sống của dân tộc đó với những nét đặc trưng của một thế giới riêng biệt.
Tuy nhiên, tính dân tộc của văn học không thể hiện ở đối tượng, đường nét, màu sắc. Nội dung chủ yếu của chủ nghĩa dân tộc là ở tinh thần dân tộc, được thể hiện ở tính cách dân tộc và thái độ sống của dân tộc. Những yếu tố đó là yếu tố tương đối bền vững được hình thành và phát triển trong những hoàn cảnh địa lí và con đường phát triển lịch sử riêng của dân tộc.
Không chỉ vậy, tính dân tộc còn biểu hiện ở hình thức văn học. Mỗi nền văn học của mỗi một quốc gia, mỗi một dân tộc lại có những thể loại truyền thống, các phương tiện miêu tả, biểu hiện riêng, đặc biệt có những dân tộc thể hiện bản sắc riêng trong tư duy và tâm hồn.
Tính dân tộc còn được thể hiện ở quá trình phát triển lịch sử độc đáo của văn học cùng các đặc sắc của văn học do quá trình lịch sử ấy mang lại của mỗi quốc gia, khu vực. Ví dụ, giữa văn học dân tộc của chủ nghĩa hiện thực Nga và chủ nghĩa hiện thực Pháp thế kỷ XIX, ta có thể nhận ra sự khác biệt.
Tính dân tộc trong văn học có nội dung lịch sử và phải được nghiên cứu từ góc độ lịch sử. Nó ra đời trong một quá trình lâu dài, mà những dấu mốc quan trọng là sự hình thành quốc gia và việc sử dụng chữ quốc ngữ làm ngôn ngữ viết. Trong quá trình đó, nó liên tục được làm giàu và phong phú lên nhờ sự tiếp thu những tinh hoa của văn hóa nước ngoài. Vì vậy, một tác phẩm văn học mang tính dân tộc cao phải kế thừa truyền thống văn học của dân tộc mình vừa đổi mới và có đóng góp vào sự phát triển của truyền thống ấy.
3. Tính dân tộc được thể hiện qua những đặc tính nào?
3.1. Tính dân tộc là một phạm trù thẩm mĩ:
Phạm trù này kết hợp và thấm nhuần tất cả các yếu tố của văn học từ nguồn gốc, đối tượng, chức năng cho đến nội dung của văn học (cả ngôn ngữ, loại thể, thủ pháp, nghệ thuật,…). Tác phẩm mang tính dân tộc là tổng hợp của các đặc điểm, nội dung và hình thức, chứ không của riêng một yếu tố nào.
(Câu từ khó hiểu cần điều chỉnh) Lâu nay người ta chưa có sự hiểu biết cụ thể và toàn diện về cụm từ “tính dân tộc”. Sự mơ hồ này bắt nguồn từ việc dân tộc không được coi là một phạm trù thẩm mĩ. Đây không chỉ là đặc điểm cần có của văn học, mà còn là tiêu chí quan trọng để đánh giá tư tưởng, nghệ thuật trong nội dung và hình thức của tác phẩm văn học. Do đó, tính dân tộc được coi như là một phạm trù giá trị. Nói cách khác, nếu nói đến tinh thần dân tộc là nói đến phẩm chất, là sự kết tinh bản sắc độc đáo của dân tộc.
3.2. Tính dân tộc là một phạm trù mang tính lịch sử:
Tính dân tộc trong văn học là một phạm trù lịch sử. Nó đề cập đến những sự kiện lịch sử – xã hội nhất định. Đó là lý do tại sao nó liên tục thay đổi. Một quốc gia không phải là một hệ thống khép kín của các yếu tố nhất định. Ngược lại, nó liên quan đến những hoàn cảnh lịch sử nhất định và không ngừng biến đổi và phát triển. Do điều kiện lịch sử – xã hội mà tính lịch sử ở mỗi thời kỳ lịch sử có một nội dung khác nhau. Stalin – nhà cách mạng, nhà chính trị Liên Xô đã nói như sau: “Vạn vật thay đổi… Đời sống thay đổi, vấn đề dân tộc cũng thay đổi theo. Thời đại nào cũng có giai cấp. Trên vũ đài đấu tranh xuất hiện các giai cấp khác nhau, mỗi giai cấp đều hiểu ” vấn đề dân tộc ” theo quan điểm riêng của mình. Do đó, vào những thời điểm khác nhau, “vấn đề dân tộc” phục vụ cho những lợi ích khác nhau, có được những sắc thái khác nhau tùy theo thời đại và giai cấp đề xuất ra nó.” Chúng ta có thể thấy sự thay đổi này qua ví dụ sau: Lòng trung thành trước hết là lòng trung thành với quê hương, với dân tộc. Tuy nhiên, lòng trung thành ấy được hiểu khác nhau trong các thời đại lịch sử. Giai cấp phong kiến thống trị hiểu “trung” là “trung quân ái quốc”. Nhưng “trung” được hiểu một cách mù quáng theo nội dung chung chung: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Ở thời đại chúng ta, “Trung” là “trung với nước, hiếu với dân”.
4. Biểu hiện tính dân tộc trong văn học:
Văn học thể hiện đời sống tinh thần của dân tộc nên tính dân tộc muôn đời là đặc trưng của văn học. Văn học của một quốc gia không thể giống với văn học của một quốc gia khác. Lịch sử văn học Việt Nam và thế giới cho thấy rõ điều này. Có những dân tộc chỉ vài chục nghìn người cũng có nền văn học của mình, trong đó có những tác giả, tác phẩm nổi tiếng thế giới. Chỉ khi một dân tộc bị đồng hóa hoàn toàn thì văn học của dân tộc đó mới dần mai một.
Đời sống trí thức của một dân tộc, trong đó có văn học, là một sức sống vô cùng bền bỉ. Có những dân tộc mất nước, bị ngoại bang đô hộ hàng trăm, hàng nghìn năm nhưng không bị đồng hóa, nền văn hiến của họ vẫn tồn tại và phát triển. Mỗi tác phẩm văn học có giá trị đều trở thành tín hiệu thông báo với thế giới về dân tộc, từ đó thúc đẩy thế giới nhận thức về dân tộc mình. Không thể có một nền văn học nào có giá trị mà không mang tính dân tộc sâu sắc.
Tính dân tộc trong văn học và mỗi tác phẩm văn học thể hiện ở nhiều mặt, nhưng rõ nhất tập trung ở ba mặt: tư tưởng, tâm hồn và nét sinh hoạt của dân tộc. Mỗi tác phẩm văn học, dù là thơ hai câu hay tiểu thuyết nhiều đoạn đều chứa đựng tư tưởng của nhà văn, và tư tưởng của nhà văn mang tư tưởng của một dân tộc nào đó. Nếu có một nhà văn trong một đất nước, ở một thời nào đó tư tưởng đi ngược lại tư tưởng của dân tộc mình thì bao giờ cũng bị đào thải. Các nhà văn tiên tiến của mọi thời đại đại diện cho nhân dân của họ về mặt tư tưởng.
Tính dân tộc thể hiện qua tính cách, tâm hồn, trí tuệ, tình cảm, suy nghĩ và còn được thể hiện qua ngoại hình, trang phục, hành động, động tác, cử chỉ,…
Bàn về tính dân tộc trong văn học, nghệ thuật, nhà bác học Nga A.Tôn Xtôi đã từng nhận xét rằng: “Nghệ thuật dân tộc là nghệ thuật mang hương vị của đất nước, trong tiếng mẹ đẻ mỗi từ dường như có hai lần ý nghĩa nghệ thuật…”. Quan điểm đó rất đúng, bởi vì tác phẩm văn học và tác phẩm nghệ thuật là cá thể, là sản phẩm của người nghệ sĩ, nhưng đằng sau mỗi người nghệ sĩ luôn là bóng hình của dân tộc, điều luôn thấm đượm trong từng câu, từng chữ, từng cảm nghĩ của nhà văn, nhà thơ. Và đó cũng chính là nét sinh hoạt dân tộc đã tạo cho nền văn học của dân tộc này một bản sắc riêng được gìn giữ và bảo tồn cho đến ngày nay.
5. Vài nét về tính dân tộc trong văn học Việt Nam:
Tính dân tộc có thể được hiểu là những đặc điểm đặc trưng, nổi bật của một cộng đồng người có chung một lãnh thổ, ngôn ngữ, cách làm việc và quy tắc chính trị trong một lịch sử lâu dài. Tính dân tộc không hiện ra rõ ràng, cụ thể mà thấm nhuần trong tình cảm, cách nhìn và cách thể hiện của tác phẩm. Tác giả không cứ phải miêu tả thiên nhiên hay kể tên những xứ sở, làng mạc gắn liền với những con người ấy thì tác phẩm mang đậm tính dân tộc. Đọc “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, ta thấy nhiều chỗ, nhiều nhân vật, thậm chí cả cốt truyện đều có nguồn gốc từ Trung Quốc nhưng người đọc vẫn cảm nhận được cái hồn dân tộc thấm đẫm trong các trang Kiều.
Rõ ràng một tác phẩm có tính dân tộc phải thể hiện được “tính cách dân tộc và thái độ sống của dân tộc”. Tính dân tộc là những đặc điểm lặp đi lặp lại của một dân tộc tạo thành hình ảnh tinh thần của một dân tộc. Chẳng hạn như, người phụ nữ Việt Nam từ xa xưa đã luôn chịu thương chịu khó, vị tha, giàu lòng yêu thương, thủy chung. Tính cách này đã được hình thành từ xa xưa, được lưu giữ qua truyền thuyết và lưu truyền trong nhiều câu ca dao, truyện kể khác.
Trong văn học trung đại, ta gặp tính cách này qua hình tượng nàng Kiều, một cô gái vô cùng xinh đẹp và tài giỏi. Dù sống trong cảnh “yên bề gia thất” nhưng khi gia đình lâm nguy, Kiều sẵn sàng hy sinh mối tình đầu đẹp đẽ Kim Trọng và bán mình cứu cha. Mười lăm năm lưu lạc với bao đau thương, tủi nhục không làm phai nhạt những nét đáng quý của nàng, trái lại, hoàn cảnh bất hạnh càng làm cho vẻ đẹp của nàng càng hiện rõ.
Tính cách ấy của người phụ nữ Việt Nam còn được thể hiện rõ nét nhất trong thời đại văn học hiện đại trong tiểu thuyết “Hòn Đất” của nhà văn Anh Đức viết về chị Sứ, một người phụ nữ “chỉ sung sướng bằng sự sung sướng của mẹ, cha anh em đồng chí và khi có con chị dành cho con tất cả những gì mình có” hay hình ảnh những cô gái thanh niên xung phong trẻ trung tình nguyện hy sinh tuổi thanh xuân của mình cho đất nước và nhân dân.
Tính dân tộc còn được thể hiện trong cái nhìn của dân tộc về thế giới xung quanh, thể hiện một cách hoàn hảo nhất tâm tư, thời cuộc và mối quan hệ nhân văn của các nhà văn, nhà thơ nước nhà. Đọc thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm hay Nguyễn Khuyến, ta cảm nhận tâm hồn dân tộc thể hiện qua những trăn trở, suy nghĩ và đơn giản là những rung động của tâm hồn nhà thơ trước cảnh vật của đất nước.