Tái thẩm là gì? Tính chất của tái thẩm, căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm tiếng Anh là gì? Tính chất của tái thẩm? Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm?
Theo quy định thông thường, bản án, quyết định hình sự của
1. Tái thẩm là gì?
Thủ tục tái thẩm được hiểu là hình thức pháp lý mà Tòa án có thẩm quyền áp dụng để xét lại bản án, hoặc quyết định hình sự đã có hiệu lực pháp luật bị chủ thể có thẩm quyền kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó, nhằm đảm bảo sự thật của vụ án hoặc được xác định khách quan, toàn diện và đầy đủ.
Thủ tục tái thẩm chính là cơ chế đảm bảo nâng cao trách nhiệm của Nhà nước đối với công dân, đảm bảo thực thi pháp luật một cách nghiêm minh, công bằng, bảo vệ triệt để các quyền cơ bản nhất của công dân. Đồng thời đảm bảo hiệu quả hoạt động và tính độc tập của các cơ quan tư pháp, qua đó bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân.
Thủ tục tái thẩm có ý nghĩa pháp lý đó chính là các quyết định của Tòa án có thẩm quyền tái thẩm hoặc là cơ sở pháp lý để khẳng định tính có căn cứ của bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực phá luật, từ đó chấm dứt tố tụng đối với vụ án hoặc khôi phục lại trình tự tố tụng đối với vụ án (quyết định hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại, xét xử lại). Do đó, tái thẩm chính là biện pháp tố tụng góp phần đảm bảo cho vụ án hình sự được giải quyết.
2. Tính chất của tái thẩm, căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm tiếng Anh là gì?
Tính chất của tái thẩm tiếng Anh là “Nature of reopening procedure”.
Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm tiếng Anh là “Grounds for protest through reopening procedure”.
3. Tính chất của thủ tục tái thẩm
Tính chất của tái thẩm đó chính là xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà tòa án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó.
– Về đối tượng của thủ tục tái thẩm đó chính là những bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Hiện nay, Tòa án hoạt động theo nguyên tắc hai cấp xét xử, Tòa án có thẩm quyền tái thẩm không xét xử lại vụ án mà chỉ xét lại tính có căn cứ của các bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
– Cơ sở pháp lý làm phát sinh thủ tục tái thẩm đó chính là kháng nghị của những người có thẩm quyền theo các trình tự và thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định và không quy định về quyền kháng cáo tái thẩm
– Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà tòa án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó. Những tình tiết này không hề có trong hồ sơ vụ án nên Tòa án không hề biết khi ra bản án hoặc quyết định dó. Những tình tiết đó được viết đến trong quá trình giải quyết vụ án từ khi khởi tổ điều tra đến trước khi Tòa án ra quyết định hoặc bản án đã có hiệu lực pháp luật không được coi là các tình tiết mới. Những tình tiết phải có giá trị có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định đó. Nếu những tình tiết mới mà không có thể làm thay đổi cơ bản nội dung bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án thì không thuộc trường hợp phải xét lại theo thủ tục tái thẩm.
4. Căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
Điều kiện cần và đủ để một bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật được đưa ra kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là phát hiện và xác định được tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung bản án hoặc quyết định đồng thời Tòa án phải không biết được những tình tiết này khi ra bản án hoặc quyết định đó. Tại
“Điều 398. Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm khi có một trong các căn cứ:
1. Có căn cứ chứng minh lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, kết luận định giá tài sản, lời dịch của người phiên dịch, bản dịch thuật có những điểm quan trọng không đúng sự thật;
2. Có tình tiết mà Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm do không biết được mà kết luận không đúng làm cho bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật không đúng sự thật khách quan của vụ án;
3. Vật chứng, biên bản về hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, biên bản hoạt động tố tụng khác hoặc những chứng cứ, tài liệu, đồ vật khác trong vụ án bị giả mạo hoặc không đúng sự thật;
4. Những tình tiết khác làm cho bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật không đúng sự thật khách quan của vụ án.”
Những tình tiết được làm căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đó là:
Có căn cứ chứng minh lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, kết luận định giá tài sản, lời dịch của người phiên dịch, bản dịch thuật có những điểm quan trọng không đúng sự thật
– Người làm chứng là người biết được các tình tiết có liên quan đến vụ án, lời khai của người làm chứng được coi là nguồn chứng cứ quan trọng trong vụ án hình sự. Luật Tố tụng hình sự cũng quy định người làm chứng phải có nghĩa vụ khai trung thực tất cả những tình tiết mà mình biết về vụ án. Nhưng trên thực tế, vì nhiều lý do khác nhau mà người làm chứng đã khai báo hoặc cung cấp những tài liệu không đúng sự thất cho cơ quan tiến hành tố tụng. Mà các cơ quan tiến hành tố tụng dựa vào những chứng cứ này để kết luận vụ án, dẫn đến việc vụ án bị xét xử sai. Sau khi bản án, quyết định đã có hiệu lực thì mới phát hiện ra lời khai đó là không đúng sự thật. Lời khai trở thành căn cứ kháng nghị tái thẩm đó là những lời khai có những điểm quan trọng được phát hiện là không đúng sự thật và những điểm quan trọng không đúng sự thật đó có thể làm thay đổi nội dung cơ bản của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
Kết luận giám định, định giá tài sản cũng là nguồn chứng cứ quan trọng để giải quyết vụ án hình sự. Về nguyên tắc, thì cơ quan giám định, người giám định, cơ quan định giá tài sản và người giám định phải sử dụng kiến thức chuyên môn của mình để thực hiện các yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng nêu trong quyết định trưng cầu giám định, định giá tài sản. Kết luận định giá tài sản, kết luận giám định có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết vụ án. Sau khi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện ra rằng kết luận giám định, kết luận định giá tài sản không đúng sự thật, làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định của tòa án thì phải tiến hành kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
– Người phiên dịch đóng vai trò quan trọng do trong hoạt động tố tụng tiếng nói, chữ viết dùng trong tố tụng hình sự là tiếng việt, nên khi người phiên dịch dịch sai hoặc bản dịch của họ không đúng sự thật sẽ khiến cho vụ án có thể bị xét xử sai. Sau khi bản án, quyết định đó có hiệu lực pháp luật mới phát hiện ra điều đó thì phải kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
Có tình tiết mà Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm do không biết được mà kết luận không đúng làm cho bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật không đúng sự thật khách quan của vụ án
Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm là những người tiến hành tố tụng. Kết luận của họ được đưa ra trên quá trình xem xét, đánh giá đầy đủ các chứng cứ khách quan của vụ án. Nếu kết luận của những người trên không đúng sẽ khiến cho vụ án bị xét xử sai. Những chủ thể trên đánh giá dựa vào nguồn chứng cứ bị giả mạo trong vụ án để đưa ra kết luận mà không thể biết được các tình tiết được sử dụng làm chứng cứ để đưa ra kết luận đó lại không đủ điều kiện để trở thành chứng cứ trong vụ án, do nó không đảm bảo tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp. Đây chính là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái đốc thẩm. Đối với những trường hợp họ biết mà vẫn kết luận không đúng nhưng do cố ý dẫn đến việc bản án hoặc quyết định sai thì không là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
Vật chứng, biên bản về hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, biên bản hoạt động tố tụng khác hoặc những chứng cứ, tài liệu, đồ vật khác trong vụ án bị giả mạo hoặc không đúng sự thật;
Để một vụ án được xét xử một cách đúng đắn thì chứng cứ phải đảm bảo yêu cầu khách quan, liên quan và hợp pháp. Khi vật chứng, biên bản điều tra, biên bản các hoạt động tố tụng khác hoặc những tài liệu khác trong vụ án bị giả mạo hoặc không đúng sự thật sẽ dẫn đến việc Tòa án sẽ ra bản án, quyết định không đúng căn cứ pháp luật, khiến cho vụ án bị xét xử sai.
Những tình tiết khác làm cho bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật không đúng sự thật khách quan của vụ án.
Những tính tiết khác ở đây chính là những tình tiết không liên quan đến ba căn cứ nêu trên, những tình tiết này chính là những tình tiết mới khác chứ không phải tình tiết nào cũng được.