Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Cao Bá Quát được chúng minh biên soạn giúp các em học sinh có thêm tài liệu về nhà thơ Cao Bá Quát để tham khảo phục vụ quá trình học tập. Mời các bạn cùng tham khảo nhé.
Mục lục bài viết
1. Tiểu sử Cao Bá Quát:
Cao Bá Quát là nhà thơ lỗi lạc, lãnh tụ phong trào khởi nghĩa nông dân nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX.
Cao Bá Quát sinh khoảng 1808-1810, mất năm 1855.
Cao Bá Quát tên húy là Chu Thần (con nhà Chu), hiệu là Cúc Đường, người Mẫn Hiên. Ông quê ở làng Phú Thọ, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh.
Cao Bá Quát xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo. Cha ông sống vào thời Lê mạt, xã hội loạn lạc nên ông không thi cử làm quan mà chỉ sống bằng nghề dạy học. Nhưng họ Cao là dòng họ có truyền thống văn thơ, khoa cử.
Từ nhỏ, ông là người thông minh, học giỏi và dũng cảm. Tương truyền năm 14 tuổi ông dũng cảm đi thi mà không đỗ, chín năm sau (1831) ông đỗ đệ nhị hương (đỗ á khôi, giải nguyên, đỗ đệ nhị giáp). Sau đó, Cao Bá Quát nhiều lần đi thi ở kinh đô nhưng không đỗ, mãi mãi trượt (chắc không phải vì bất tài mà vì ông là người ngay thẳng nên bị quan lại đố kỵ). Mặt khác, ông vốn là người tự do, phóng khoáng nên không chịu viết văn theo quy chế thi cử.
Ông đỗ cử nhân năm 1831, nhưng mãi đến năm 1841 mới được bổ thêm một chức quan nhỏ: chức quan bộ Lễ (Bộ Lễ: nơi làm việc của quan có nhiều chức vụ, chức vụ nhỏ nhất cũng chỉ là một chân sai vặt). Khoảng thời gian này, ông được cử đi làm khảo cho kỳ thi Hương ở trường thi Thừa Thiên. Thấy một số bài thi xuất sắc nhưng bị trượt, anh cùng một người bạn sửa những bài thi đó để đậu nhưng bị phát hiện. Ông bị khép tội tử hình, sau khi triều đình xét xử chỉ cách chức và truy đuổi ra Đà Nẵng. Sau ba năm ngồi tù, ông được cử đi phục vụ một phái viên của triều đình trong một chuyến công tác đến Singapore để gọi là lập công chuộc tội.
Từ nước ngoài trở về, ông được giữ chức cũ một thời gian rồi được rửa tội trở về sống với vợ con ở Thăng Long.
Năm 1847, ông được vua bổ sung làm quan Hàn lâm viện (sưu tầm, sắp xếp các bài thơ vịnh vua). Nhưng vốn là một người tài hoa và chính trực, Cao Bá Quát trở thành cái gai trong mắt bọn quan lại trong triều nên chúng tìm cách hạ bệ ông.
Năm 1852, ông được cử đi làm Giáo thụ ở phủ Quốc Oai, Sơn Tây (quan phụ trách giáo dục một vùng). Nơi này là vùng thưa vắng, ít người đi học. Đối với ông, đó là một cuộc phiêu lưu thực sự, khiến ông càng tức giận hơn. Năm ấy, mùa phiêu bạt bị lục lạc tàn phá, nhân dân đói khổ vô cùng, nhất là vùng Sơn Tây. Bị đẩy đến bước đường cùng, họ đã đứng lên chống lại địa chủ và quan lại để giành lấy mạng sống của mình. Cao Bạt Quát bắt liên lạc với những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nên đã từ bỏ chức vụ dạy học. Ông được sự ủng hộ của nhà Lê, tôn Lê Duy Cự làm chúa, tự làm Quốc sư đứng lên kêu gọi nhân dân vùng này nổi dậy lật đổ nhà Nguyễn. Thật không may, quá trình khởi động lại không thành công. Cao Bạt Quát hy sinh trong cuộc chiến với triều đình. Sau khi ông mất, nhà Nguyễn đã trả thù cho dòng họ này một cách dã man bằng cách ra lệnh tru di tam tộc cả dòng họ.
2. Sự nghiệp văn chương Cao Bá Quát:
Cao Bá Quát là một nhà thơ tài năng và dũng cảm, được người đời tôn vinh là Thanh Quất (“Thần Siêu, Thanh Quất”).
– Thơ ông bộc lộ thái độ phê phán mạnh mẽ chế độ phong kiến, bảo thủ và chứa đựng sự phát triển tư tưởng khai sáng một cách tự phát, phản ánh nhu cầu đổi mới của xã hội Việt Nam thời kỳ trung đại. thế giới thế kỷ XIX.
– Ngay sau thất bại của cuộc khởi nghĩa ở Mỹ Lương (tỉnh Sơn Tây) (1855-1856), các tác phẩm của Cao Bá Quát bị triều đình nhà Nguyễn tịch thu, cấm lưu hành nên bị thất lạc không ít.
– Một số tác phẩm còn sót lại có hơn một nghìn bài viết bằng chữ Nôm và chữ Hán.
– Cụ thể, hiện có 1353 bài thơ và 21 bài văn xuôi, trong đó có 11 bài viết theo thể tự sự hoặc chính luận và 10 truyện ngắn viết theo thể truyền thống.
– Về chữ Nôm có một số bài hát nói, thơ Đường luật và bài phú Tài tử đa cùng (Bậc tài tử lắm cảnh khốn cùng). Về chữ Hán, khối lượng thơ nhiều hơn, được tập hợp trong các tập:Cao Bá Quát thi tập, Cao Chu Thần di thảo, Cao Chu Thần thi tập, Mẫn Hiên thi tập.
3. Một số đặc điểm của thơ Cao Bá Quát:
3.1. Thơ ông chứa đựng nội dung hiện thực phong phú:
Thơ Cao Bá Quát thuộc khuynh hướng hiện thực phê phán, bộ mặt xã hội đương thời được phản ánh khá rộng rãi, đa dạng, phong phú trong tác phẩm của ông. Chẳng hạn, qua thơ ông, người ta thấy được cuộc sống thiếu thốn, khổ cực của một nhà Nho nghèo với hoài bão và sự cống hiến cho đời của một người bị hàm oan; Những áp lực chém giết, đòn roi dã man, tàn bạo của triều đình nhà Nguyễn đối với những kẻ lừa đảo tài ba, có chí tiến bộ và cuộc sống cơ cực của nhân dân lao động trong xã hội đương thời. Như nhiều nhà thơ tiến bộ khác, Cao Bá Quát cũng bắt đầu từ những vấn đề cá nhân đến những vấn đề xã hội, càng về sau, thơ ông càng hiện thực. Từ những chi tiết chân thực đó, chúng ta thấy được bộ mặt của một chế độ dã man, tàn bạo, phi nhân tính, đáng nguyền rủa và đáng bị tiêu diệt.
3.2. Thơ Cao Bá Quát chứa đựng nhiều tình cảm tốt đẹp, nhiều tư tưởng tiến bộ:
Thơ văn Cao Bá Quát là sản phẩm tinh thần của một con người có cốt cách cứng cỏi, trí tuệ minh mẫn; một tâm hồn đón gió thời đại, một trái tim nhạy cảm với cảm xúc. Vì vậy, thơ ông chứa đựng nhiều tình cảm hay và tư tưởng tiến bộ.
a. Lòng yêu nước và tự hào dân tộc:
Ngưỡng mộ, khâm phục các anh hùng cứu nước, ông đã làm thơ như Vịnh Phù Đổng Thiên Vương, Vịnh Trần Hưng Đạo… Qua ca dao thần của các anh hùng ấy, Cao Bá Quát bộc lộ khát vọng cứu dân, cứu nước . Anh ta dường như đã tìm thấy những điểm mạnh từ lịch sử của các dân tộc. Đây là điểm khác biệt giữa thơ Vịnh lịch sử của ông với các nhà thơ khác
Cao Bát Quát cũng là một người say mê vẻ đẹp của sông núi đất nước, ông đều vẽ lên những vẻ đẹp đó. Hầu hết các danh lam thắng cảnh ở miền Bắc, ông đã từng đến thăm và ngâm thơ như núi Ba Vì, hồ Tây, núi Thủy Đức, sông Hương. Nét độc đáo của nhà thơ khi miêu tả những cảnh này là không miêu tả theo kiểu những ẩn sĩ đi du ngoạn để chữa bệnh tinh thần mà với tinh thần dân tộc. Dải sông Hương mềm mại là thế nhưng khi hiện lên trong thơ ông vẫn toát lên khí chất oai hùng: Trường giang như gươm in trời (Dòng sông dài như gươm giữa trời xanh) ) (Buổi sáng qua sông Hương).
Núi Dục Thúy, núi Tản Viên, hồ Tây từ lâu đã trở thành niềm tự hào của đất nước và đặc biệt là tượng đài núi Tản đã tượng trưng cho khí phách anh hùng của dân tộc ta. Và trong thơ Cao Bá Quát, nét độc đáo chính là câu tự vấn của tác giả: Còn ta thì sao? trước những cảnh khải hoàn ấy. Tình cảm của anh luôn có hai chiều: tình yêu và trách nhiệm. Điều này không dễ tìm thấy ở các nhà thơ đương đại.
Đặc biệt trong cuộc đời, Cao Bá Quát đã ý thức được vận mệnh của đất nước trước hiểm họa xâm lược của phương Tây.
b. Thương cho những người nghèo khổ, bất hạnh:
Đây là đặc điểm nổi bật nhất khiến Cao Bá Quát khác biệt với các nhà thơ cùng thời. Cao Bá Quát là người rất có lòng thương dân, ông đứng về phía quần chúng lao động để cảm thông nỗi khổ đói rách, cơm rách của họ.
Nhà thơ thực sự xúc động trước những hoàn cảnh đói khổ của những người dân nghèo:
+ Bài thơ Đi đường gặp người đói giúp ta cảm nhận được tấm lòng yêu thương dạt dào tình cảm.
+ Bài ca nhân ái. tát nước trên ruộng cao Buổi sáng, bố cục miêu tả cảnh người lao động tát nước trên ruộng cao. Sáng sương còn dày, trời lạnh, bụng đói, môi run nhưng lúc nào cũng phải lê lết.
+ Bài hát Cô gái từ cầu về trong chiều tối (Mộ kiều qui nữ) tả cảnh một buổi chiều se lạnh, một cô gái phải đi bán quần áo để mua cám cho gia đình, khi cô trở về qua cầu gió thổi như xưa. Cô gái vẫn ung dung bước đi trong lòng như ấm lại khi nghĩ về gia đình đang tựa cửa chờ mình.
Cao Bạt Quát cũng thấy rằng nguyên nhân dẫn đến sự nghèo khổ của quần chúng lao động là do sự áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị. Vì vậy, nhà thơ đã dày công mài giũa và phê phán thẳng thắn chế độ cai trị hà khắc của triều đình nhà Nguyễn. Lòng yêu thương quần chúng của Cao Bá Quát cũng đã biến thành trách nhiệm, đó cũng là nét đặc sắc của tác giả này.
THAM KHẢO THÊM: