Bài viết dưới đây chúng mình xin giới thiệu tới các bạn học sinh cùng các bạn bài viết Tiểu sử cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của Trương Hán Siêu nằm trong chương trình Ngữ văn lớp 10. Mời các bạn cùng tham khảo nhé.
Mục lục bài viết
1. Tìm hiểu về Tiểu sử cuộc đời Trương Hán Siêu:
1.1. Tiểu sử cuộc đời Trương Hán Siêu:
Trương Hán Siêu (chưa rõ năm sinh – mất năm 1354), có tên tự là Thăng Phủ, tên hiệu Đôn Tẩu, ông là một danh sĩ đời Trần, kiệt tác văn chương nổi tiếng nhất trong sự nghiệp sáng tác của Trương Hán Siêu là bài thơ Bạch Đằng giang phú, đây cũng là bài thơ rất được ưa chuộng của ông…
Trương Hán Siêu quê ở làng Phúc Am, thuộc huyện Yên Ninh, lộ Trường Yên (ngày nay là phường Phúc Thành, thuộc thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình).
Trương Hán Siêu vốn là khách của Trần Quốc Tuấn, tính tình cương trực, học thức uyên bác. Ông tham gia kháng chiến chống Nguyên – Mông lần thứ hai và lần thứ ba. Năm 1308, ông được vua Trần Anh Tông phong làm Hàn lâm học sĩ. Thời Trần Minh Tông ông giữ chức Hành khiển. Thời Trần Hiến Tông, năm 1339, ông được bổ nhiệm làm môn hạ hữu ty lang trung, năm 1342 đổi làm quan tả ty lang trung kiêm Kinh lược sứ ở Lạng Giang, sau đó thăng làm tả gián nghị đại phu năm 1345, năm 1351 làm tham tri chính sự.
Năm Quý Tỵ 1353, ông dẫn quân Thần sách ra trấn giữ ở Hóa Châu (Huế), giữ cho đất nước thái bình. Tháng 11 năm sau, ông cáo bệnh và xin lui về nghỉ, nhưng chưa kịp về kinh thì đã mất. Sau khi mất, vua truy phong ông là thái bảo, năm 1363 truy phong ông là thái phó và được thờ tại Văn Miếu Quốc Tử Giám (từ năm 1372), ngang hàng với những người đức hạnh ngày xưa.
Trương Hán Siêu là người uyên bác, đầy lòng yêu nước, được các vua Trần kính trọng làm bậc thầy. Khi còn trẻ, ông phản đối Phật giáo, nhưng nhà vua không trách, và bổ nhiệm ông làm người đứng đầu một ngôi chùa lớn. Về cuối đời, ông trở thành một Phật tử sùng đạo và những sáng tác của ông cũng chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng này.
1.2. Sự nghiệp văn học của Trương Hán Siêu:
Bài Bạch Đằng Giang phú của Trương Hán Siêu là một kiệt tác văn chương được lưu truyền qua nhiều thế kỷ như một tác phẩm văn chương anh hùng trong lịch sử văn học yêu nước Việt Nam, một tác phẩm văn chương chan chứa lòng tự hào dân tộc, mang ý nghĩa tóm tắt chiến thắng Bạch Đằng thời bấy giờ:
“Giặc tan muôn thủa thái bình,
Tại đâu đất hiểm, bởi mình đức cao”.
Trương Hán Siêu còn sáng tác Linh tế thập ký (bài ký tháp Linh Tế), Quang nghiêm tự bi văn (bài văn bia chùa Quang Nghiêm). Hai bài thơ này đề cao Nho giáo, phê phán Phật giáo. Ông cùng Nguyễn Trung Ngạn biên soạn Bộ luật Hoàng triều đại điển và Hình thư để chế độ phong kiến Việt Nam hoạt động theo pháp luật. Ông cũng là một nhà văn hóa, có tầm nhìn sớm nhất về du lịch tại Việt Nam.
Bài thơ “Dục Thúy Sơn khắc thạch” về núi Dục Thúy ở Ninh Bình được khắc trên sườn núi, hiện vẫn còn nguyên nét chữ. Dục Thúy Sơn có nghĩa là “núi có hình con chim trả ơn đang tắm gội” – tên này do ông đặt cho núi Non Nước quê ông.
Dịch nghĩa
Sắc núi vẫn xanh mượt mà,
Người đi chơi sao không về?
Giữa dòng sáng ngời bóng tháp,
Thượng giới mở cánh cửa hang.
Có cách biệt với cuộc đời trôi nổi như ngày nay,
Mới biết rõ cái danh hờ trước kia là không đúng,
Trời đất ở Ngũ-hồ rộng thênh thang,
Hãy tìm lại tảng đá ngồi câu khi trước.
Dịch thơ ( do Trần Văn Giáp dịch)
Non xanh xanh vẫn như xưa,
Du nhân đi mãi vẫn chưa thấy về!
Sóng in bóng tháp bồ đề,
Mở toang cửa động liền kề chân mây.
Đời lênh đênh trước khác nay,
Thân nhàn mới biết trước ngày lầm to.
Mênh mông trời đất Năm hồ,
Vòm câu cũ, kíp thăm dò nơi đâu.
2. Phong cách sáng tác của Trương Hán Siêu:
Dưới ngòi bút khách quan của mình, Trương Hán Siêu đã cho ra đời những tác phẩm văn học nổi tiếng với nhiều đề tài, thể loại khác nhau. Tuy nhiên, phong cách sáng tác của Trương Hán Siêu nhìn chung vẫn là thể hiện niềm tự hào, ngợi ca của dân tộc đối với những kẻ bịp bợm trong lịch sử.
Những áng văn mẫu mực mang tinh thần thời đại của Trương Hán Siêu là nguồn cảm hứng yêu nước cho nhiều thế hệ trẻ học tập và phát huy.
Cuối đời, Trương Hán Siêu là một Phật tử thuần thành và các tác giả của Trương Hán Siêu cũng chịu ảnh hưởng của tư tưởng này.
3. Các tác phẩm chính của Trương Hán Siêu:
– Các tác phẩm của Trương Hán Siêu hiện còn 17 bài thơ: Cúc hoa bách vịnh (Vịnh hoa cúc còn 4 bài), Hoá Châu tác (Thơ làm ở Hoá Châu), Dục Thuý sơn (Núi Dục Thuý sơn), Quá Tống đô (Qua kinh đô nhà Tống).
– Về văn xuôi Trương Hán Siêu có 2 bài: Khai Nghiêm tự bi ký (Văn bia chùa Khai Nghiêm) và Dục Thuý sơn linh tế tháp ký (Bài ký tháp linh tế núi Dục Thuý sơn).
4. Tác phẩm Bạch Đằng Giang phú – Trương Hán Siêu:
*Nội dung tác phẩm Bạch Đằng Giang phú – Trương Hán Siêu:
Phiên âm:
Khách hữu:
Quải hạn mạn chi phong phàm,
Thập hạo đãng chi hải nguyệt.
Triêu dát huyền hề Nguyên, Tương,
Mộ u thám hề Vũ huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ,
Tam Ngô, Bách Việt.
Nhân tích sở chí,
Mị bất kinh duyệt.
Hung thôn Vân Mộng giả sổ bách nhi,
Tứ phương tráng chí do khuyết như dã.
Nãi cử tiếp hề trung lưu,
Túng Tử Trường chi viễn du.
Thiệp Đại Than khẩu,
Tố Đông Triều đầu.
Để Bạch Đằng giang,
Thị phiếm thị phù.
Tiếp kình ba ư vô tế,
Trám diêu vĩ chi tương mâu.
Thuỷ thiên nhất sắc,
Phong cảnh tam thu.
Chử địch ngạn lô,
Sắt sắt sâu sâu.
Chiết kích trầm giang,
Khô cốt doanh khâu.
Thảm nhiên bất lạc,
Trữ lập ngưng mâu.
Niệm hào kiệt chi dĩ vãng,
Thán tung tích chi không lưu.
Giang biên phụ lão,
Vị ngã hà cầu.
Hoặc phù lê trượng,
Hoặc trạo cô châu.
Ấp dư nhi ngôn viết:
“Thử Trùng Hưng nhị thánh cầm Ô Mã Nhi chi chiến địa,
Dữ tích thời Ngô thị phá Lưu Hoằng Thao chi cố châu dã.”
Đương kỳ:
Trục lô thiên lý,
Tinh kỳ ỷ nỉ.
Tỳ hưu lục quân,
Binh nhẫn phong khỉ.
Thư hùng vị quyết,
Nam Bắc đối luỹ.
Nhật nguyệt hôn hề vô quang,
Thiên địa lẫm hề tương huỷ.
Bỉ:
Tất Liệt chi thế cường,
Lưu Cung chi kế quỷ.
Tự vị đầu tiên,
Khả tảo Nam kỷ.
Ký nhi:
Hoàng thiên trợ thuận,
Hung đồ phi mỵ
Mạnh Đức Xích Bích chi sư đàm tiếu phi hôi,
Bồ Kiên Hợp Phì chi trận tu du tống tử.
Chí kim giang lưu,
Chung bất tuyết sỉ.
Tái bạo chi công,
Thiên cổ xưng mỹ.
Tuy nhiên:
Tự hữu vũ trụ,
Cố hữu giang san.
Tín thiên tạm chi thiết hiểm,
Lại nhân kiệt dĩ điện an.
Mạnh Tân chi hội ưng dương nhược Lã,
Duy Thuỷ chi chiến quốc sĩ như Hàn.
Duy thử giang chi đại tiệp,
Do đại vương chi tặc nhàn.
Anh phong khả tưởng,
Khẩu bi bất san.
Hoài cổ nhân hề vẫn thế,
Lâm giang lưu hề hậu nhan.
Hành thả ca viết:
Đại giang hề cổn cổn,
Hồng đào cự lãng hề triều tông vô tận.
Nhân nhân hề văn danh,
Phỉ nhân hề câu dẫn
Khách tòng nhi canh ca viết:
Nhị thánh hề tịnh minh,
Tựu thử giang hề tẩy giáp binh.
Hồ trần bất cảm động hề, thiên cổ thăng bình.
Tín tri: bất tại quan hà chi hiểm hề,
Duy tại ý đức chi mạc kinh.
*Ý nghĩa của bài thơ Bạch Đằng Giang Phú:
Bài thơ Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu là bài thơ ca ngợi vẻ đẹp của dòng sông Bạch Đằng – nơi diễn ra những trận chiến lịch sử giữa quân dân Việt Nam với quân xâm lược Nguyên Mông.
Đoạn thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên, quê hương của tác giả khi tác giả miêu tả dòng sông Bạch Đằng như một bức tranh hùng vĩ, đẹp đẽ với cảnh sắc xuân, hạ, thu tươi đẹp.
Thể hiện niềm tự hào dân tộc và lòng kính trọng đối với những anh hùng lịch sử của tác giả.