Bài viết dưới đây chúng minh mời các bạn cùng theo dõi bài viết Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Phạm Hổ nhằm hiểu rõ và cuộc đời ông và các tác phẩm nổi tiếng để học tốt môn Ngữ văn. Cùng theo dõi nhé.
Mục lục bài viết
1. Tiểu sử cuộc đời nhà thơ Phạm Hổ:
1.1. Cuộc đời nhà thơ Phạm Hổ:
Nhà thơ Phạm Hổ sinh ngày 28 tháng 11 năm 1926. Bút danh khác: Hồ Huy. Nguyên quán ở xã Nhân An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Hiện sống tại Hà Nội. Ông là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1957). Phạm Hổ xuất thân trong một gia đình nho học, học tiểu học ở quê, học trung học ở Huế, đỗ thủ khoa ở Quy Nhơn. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông làm cán bộ tuyên huấn tại TP.HCM. Quy Nhơn. Trong kháng chiến chống Pháp, ông là Ủy viên Ban Chấp hành Chi hội Hội họa Liên khu V. Tập kết ra Bắc, ông làm biên tập viên ở Nhà xuất bản Kim Đồng, rồi chuyển sang tuần báo Văn nghệ với chức vụ Phó tổng biên tập thứ nhất. Ông từng là Phó ban Đối ngoại Hội Nhà văn, Chủ tịch Hội đồng Văn học thiếu nhi Hội Nhà văn.
Ông sinh thuộc cung Nhân Mã, cầm tinh con Hổ (Bính Dần 1926). Phạm Hổ xếp hạng nổi tiếng thứ 76890 trên thế giới và thứ 959 trong danh sách Nhà thơ nổi tiếng.
Ông viết văn, làm thơ, viết kịch và vẽ tranh. Nổi bật trong các sáng tác của ông là dành cho thiếu nhi; Nhiều tác phẩm đã được đưa vào giảng dạy ở trường phổ thông.
Ông qua đời ngày 4 tháng 5 năm 2007, hưởng thọ 80 tuổi.
1.2. Sự nghiệp nhà thơ Phạm Hổ:
* Phần thưởng và giải thưởng:
Giải thơ chính thức Hội đồng văn học thiếu nhi Hội nhà văn năm 1985 cho tác phẩm “Những người bạn thầm lặng”.
Giải Kịch Thiếu Nhi do Đoàn Trung Bùi và Hội Nghệ Sĩ Sân Khấu trao cho vở “Nàng tiên nhỏ thành ốc”, năm 1986.
Giải thưởng Phong trào sáng tác thiếu nhi do Trung ương Đoàn tổ chức năm 1967-1968 cho tác phẩm “Chú vịt bông”.
Giải Cuộc vận động sáng tác cho thiếu nhi do Trung ương Đoàn tổ chức năm 1957-1958 cho tập thơ “Chú bò tìm bạn”.
Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật đợt I, 2001.
*Tác phẩm:
Chuyện hoa chuyện quả (6 tập in từ 1974 đến 1994), Ngựa thần từ đâu đến (tập truyện – 1986), Nàng tiên nhỏ thành Ốc (bộ ba vở kịch – 1980), Cất nhà giữa hồ (tập truyện cổ tích – 1995), Những ngày xưa thân ái (thơ – 1957), Ra khơi (thơ – 1960), Đi vớ (thơ – 1967), Những ô cửa số, những ngả đường (thơ – 1976), Vườn xoan (truyện ngắn – 1964), Tình thương (tiểu thuyết – 1974), Chú bò tìm bạn (thơ – 1966), Những người bạn nhỏ (thơ – 1960), Bạn trong vườn (thơ – 1966).
Từ khi còn là học sinh trường làng, Phạm Hổ đã say mê đọc nhiều tác phẩm văn học, nhất là những tác phẩm viết cho thiếu nhi. Thiên hướng văn học thiếu nhi được hình thành từ đó. Sau Cách mạng Tháng Tám, trong thời gian làm phụ tá cho nhà thơ Trần Mai Ninh về sinh hoạt văn nghệ ở thành phố Quy Nhơn, Phạm Hổ đã học hỏi được nhiều kinh nghiệm sáng tác. Tác phẩm của Phạm Hổ thuộc nhiều thể loại: thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, phê bình và cả hội họa.
Tuy nhiên, nhắc đến Phạm Hổ, người ta thường nghĩ đến một nhà thơ chuyên viết cho thiếu nhi. Trong cuộc sống đời thường cũng như trong tác phẩm, nhà thơ đều bộc lộ tình cảm yêu thương với tuổi thơ. Bằng tình yêu và niềm đam mê sáng tạo nghệ thuật đó, Phạm Hổ đã đến với các em thiếu nhi bằng những vần thơ hết sức hồn nhiên, hóm hỉnh. Thơ ông rất quen thuộc và gần gũi với các em thiếu nhi.
Các trò chơi dân gian của trẻ em trồng nụ trồng hoa, dung dăng dung dẻ, nu na nu nống…cây cối, con vật… được ông thể hiện qua lời văn rất sáng tạo, tạo nên sự độc đáo, hấp dẫn. . tuổi giả. Thông qua các tác phẩm này, các em được nuôi dưỡng tình yêu thương với những người thân trong gia đình, với cộng đồng xã hội, với thế giới động vật xung quanh mình. Tâm nguyện của nhà thơ là nếu được sống lại vẫn làm thơ, viết văn cho bạn đọc và ông muốn thể hiện tấm lòng của mình với đồng bào cả nước qua tình yêu thương trẻ thơ.
2. Phong cách sáng tác của Phạm Hổ:
Phạm Hổ là nhà thơ có nhiều tìm tòi trong nghệ thuật thể hiện. Thơ ông đa dạng về hình thức, nhạc điệu vui tươi, ngôn ngữ trong sáng.
Bằng tình yêu và niềm đam mê sáng tạo nghệ thuật đó, Phạm Hổ đã đến với các em thiếu nhi bằng những vần thơ hết sức hồn nhiên, hóm hỉnh.
Thơ ông rất quen thuộc và gần gũi với các em thiếu nhi. Các trò chơi dân gian của trẻ em như trồng nụ trồng hoa, dung dăng dung dẻ, nu na nu nống…,cây cối, con vật… được ông thể hiện qua lời văn rất sáng tạo, tạo nên sự độc đáo, hấp dẫn các bạn nhỏ.
3. Một số bài thơ hay nhất của Phạm Hổ:
Bàn Chân Của Bé
Bàn chân của bé
Đi dép đẹp thêm ra
Dép cũng vui thích lắm
Theo chân đi khắp nhà.
Quả Sầu Riêng
Nhà ai vừa chín quả đầu
Đã nghe xóm trước vườn sau thơm lừng
Lá chiều cụp ngủ ung dung
Để cây thức giấc tưng bừng sớm mai
Ngọt thơm sau lớp vỏ gai
Quả ngon lớn mãi cho ai đẹp lòng
Mời cô, mời bác ăn cùng
Sầu riêng mà hoá vui chung trăm nhà
Trong Đêm Bé Ngủ
Trong đêm Bé ngủ
Cây dâu ngoài bãi
Nảy những búp non
Con gà trong ổ
Đẻ trứng ấp con
Cây chuối cuối vườn
Nhắc hoa mở cánh
Ngôi sao lấp lánh
Sáng hạt sương rơi
Con cá quả mẹ
Ao khuya đớp mồi…
Đàn Gà Mới Nở
Lông vàng mát rượi
Mắt đẹp sáng ngời
Ơi! Chú gà ơi!
Ta yêu chú lắm!
Mẹ dang đôi cánh
Con biến vào trong
Mẹ ngẩng đầu trông
Bọn diều, bọn quạ
Bây giờ thong thả
Mẹ đi lên đầu
Đàn con bé xíu
Líu ríu chạy sau
Con mẹ đẹp sao
Những hòn tơ nhỏ
Chạy như lăn tròn
Trên sân, trên cỏ
Vườn trưa gió mát
Bướm bay rập rờn
Quanh đôi chân mẹ
Một rừng chân con
Bò Mẹ
Bò mẹ vừa đẻ con,
Chú bê vàng tí hon
Rúc đầu vào vú mẹ
Bú từng hồi rất ngon.
Bò mẹ quay nhìn con,
Đôi tai hơi động đậy,
Thấy ruồi trên lưng bê,
Đuôi bò mẹ phe phẩy.
Bê con lớn trông thấy,
Bò mẹ lại như gầy;
Em thương bò mẹ lắm
Cắt từng ôm cỏ đầy.
Nhìn bê nằm, mẹ liếm,
Em nghĩ, thấy vui vui:
Chỉ một bụng bò mẹ
Bao nhiêu bê ra đời…
Mèo Và Tro Bếp
Tro bếp làm đệm
Mèo ta khoanh tròn
Cả hai cùng ấm
Cùng ngủ thật ngon
Anh Là Người Đẹp Nhất
Ơi anh bộ đội
Cháu của Bá Hồ
Mũ gắn sao cờ
Anh, người đẹp nhất!
Tiến như cơn lốc
Đánh như chớp giật
Thắng như chẻ tre
Đâu anh tiến về
Đẩy tan bóng giặc
Anh đến vùng nào
Cả vùng ấy hát
Chú Bò Tìm Bạn
Mặt trời rúc bụi tre
Buổi chiều về nghe mát
Bò ra sông uống nước
Thấy bóng mình, ngỡ ai
Bò chào: – “Kìa anh bạn!
Lại gặp anh ở đây!”
Nước đang nằm nhìn mây
Nghe bò, cười nhoẻn miệng
Bóng bò chợt tan biến
Bò tưởng bạn đi đâu
Cứ ngoái trước nhìn sau
“Ậm ò” tìm gọi mãi…
Bắp Cải Xanh
Bắp cải xanh
Xanh mát mắt
Lá cải sắp
Sắp vòng tròn
Búp cải non
Nằm ngủ giữa.
Ngỗng Và Vịt
Ngỗng không chịu học
Khoe biết chữ rồi
Vịt đưa sách ngược
Ngỗng cứ tưởng xuôi
Cứ giả đọc nhẩm
Làm vịt phì cười
Vịt khuyên một hồi:
– Ngỗng ơi! Học! Học!
Thỏ Con Và Mặt Trăng
Thỏ chạy, trăng chạy
Thỏ đứng, trăng dừng
Thỏ con ngẩng mặt
Nhìn trăng lạ lùng:
– “Trăng ơi! Có phải
Trăng cũng có chân?”
Gà Con Và Quả Trứng (I)
Nhìn kìa đàn gà
Mào như hoa đỏ
Cáp thấp, cái cao
Đi, đi trên cỏ…
Gà đẹp, cả đàn
Gà em càng quý
“Cổ cao”, “Mái vàng”
Toàn gà chống Mỹ
Đố em biết đấy
Gà lo nghĩ gì?
Khi ăn, khi đẻ
Khi chạy, khi đi…?
Thơ về gà đây!
Gửi em thử đọc
Kìa! em lắng nghe
Gà đang “cục tác”
Gà bảo thơ này
Gà từng “đọc tất!”
Củ Cà-Rốt
Lá xanh
Củ đỏ
Lớn nhỏ
Bên nhau
Đất đội
Ngập đầu
Nhảy lên
Đẹp thật!
Tên em
Cà-rốt
Củ đỏ
Lá xanh…
Đom Đóm
– Anh đom đóm ơi!
Đèn anh xanh ngắt
Gió thổi không tắt
Anh xách đi đâu?
– Tôi ra đầu cầu
Cho cóc tối tối
Đi học bình dân
Rồi tôi đến trường
Làm đèn bạn học.
Gà Con Và Quả Trứng (II)
– “Tròn nhẵn, trắng hồng
Quả gì thế mẹ?
Hay là đá chăng?
Mổ xem thử nhé!”
– “Chính là con đó
Những ngày trước xa
Con nằm trong vỏ
Lớn dần, chui ra…”
– “Mẹ cứ nói đùa!
Con bay, con chạy
Còn hòn đá này
Mãi không cựa quậy!”
– “Mẹ nói đúng đấy
Lớn, con hiểu dần!
Nhiều chuyện rất thật
Mà lạ vô cùng!”