Hiện nay, thuật ngữ tiền mã hóa được tiếp cận dưới nhiều khía cạnh, nhiều hình thức khác nhau, từ tài sản ảo, tiền áo, tài sản mã hóa, tiền kỹ thuật số, tiền thay thế,... Trong đó, thuật ngữ tiền kỹ thuật số là thuật ngữ thông dụng ở Việt Nam hiện nay. Vậy tiền kỹ thuật số là gì?
Mục lục bài viết
1. Tiền kỹ thuật số là gì?
Tiền Kỹ thuật số đã xuất hiện từ rất lâu. Một trong những đồng tiền đầu tiên là E-gold xuất hiện năm 1996 và được bảo đảm bằng vàng. Một loại hình tiền kỹ thuật số nổi tiếng khác là Liberty Reserve – xuất hiện năm 2006 – người dùng có thể đổi đô la hay euro thành Đô la hay Euro Liberty Reserve. Sau đó giao dịch tự do với những người khác với mức phí 1%. Cả hai dịch vụ đều theo hình thức tập trung, thường được dùng để rửa tiền và do đó chắc chắn bị chính phủ Hoa Kỳ đóng cửa.
Tiền kỹ thuật số (Digital Currency) là một dạng tiền tệ chỉ có sẵn ở dạng kỹ thuật số hoặc điện tử, và không ở dạng vật lý. Nó bao gồm là coin, tiền thuật toán, tiền điện tử, tiền mã hóa (digital money, electronic money, electronic currency, cyber cash). Tiền tệ được lưu trữ và luân chuyển bằng điện tử.
Tiền kỹ thuật số tiếng Anh là: “Digital Currency”.
2. Đặc điểm của tiền kỹ thuật số:
Tiền kỹ thuật số không phải ở dạng vật lý như tiền xu hay tiền giấy. Tiền kỹ thuật số có các đặc tính của kỹ thuật số là giao dịch tức thì và chuyển tiền xuyên biên giới.
Tài khoản tiền kỹ thuật số có thể được lưu trữ điện tử trên một chiếc thẻ hoặc thiết bị khác. Tiền kỹ thuật số có thể quản lý tập trung, có đơn vị trung tâm kiểm soát mọi hoạt động phân phối. Hoặc cũng có thể quản lý phi tập trung, nguồn cung tiền có thể đến từ nhiều nguồn khác nhau.
Tiền kỹ thuật số là vô hình và chỉ có thể được sở hữu và giao dịch bằng cách sử dụng máy tính hoặc ví điện tử được kết nối với Internet hoặc các mạng được chỉ định. Tiền kỹ thuật số có thể được sử dụng để mua hàng hóa cũng như thanh toán dịch vụ, mặc dù chúng cũng có thể được sử dụng hạn chế trong một số cộng đồng trực tuyến nhất định, như trang web trò chơi, hoặc mạng xã hội.
Thanh toán bằng tiền kỹ thuật số được thực hiện trực tiếp giữa các bên giao dịch mà không cần bất kỳ trung gian nào, các giao dịch thường là tức thời. Phí này tốt hơn so với các phương thức thanh toán truyền thống liên quan đến ngân hàng hoặc thanh toán bù trừ. Giao dịch điện tử dựa trên tiền tệ kỹ thuật số cũng mang lại sự lưu giữ hồ sơ cần thiết và minh bạch trong giao dịch.
3. Sự khác nhau giữa tiền điện tử, tiền kỹ thuật số, tiền ảo:
Hiện nay có nhiều khái niệm khác nhau về tiền điện tử. Ví dụ như Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) mô tả “tiền điện tử là giá trị tiền tệ được lưu trữ trên một thiết bị điện tử được sử dụng phổ biến để thực hiện giao dịch thanh toán cho các tổ chức khác không phải là tổ chức phát hành”. Tiền điện tử phải là tiền pháp định (legal tender). Có đầy đủ 3 chức năng của tiền là dự trữ, trao đổi và hạch toán. Tiền điện tử cũng được Ngân hàng Trung ương (NHTW) bảo đảm. Tiền điện tử có thể do ngân hàng phát hành hoặc cũng có thể do tổ chức phi ngân hàng phát hành. Các ngân hàng có hệ thống các quy định chặt chẽ về an toàn hoạt động, quản trị rủi ro, tỷ lệ dữ trữ bắt buộc, bảo hiểm tiền gửi… Tiền điện tử có cơ chế đảm bảo tiền tệ của Ngân hàng Trung ương. Tiền điện tử chỉ được lưu trữ trong các sản phẩm điện tử gồm 2 loại là phần cứng như thẻ chíp, điện thoại thông minh gắn chíp và dữ liệu dựa trên phần mềm
Theo lực lượng đặc nhiệm về hoạt động tài chính, tiền ảo là một biểu hiện của giá trị dưới dạng số có thể có trong giao dịch kỹ thuật số, có các chức năng: là một phương tiện trao đổi; một đơn vị kế toán; một hình thức lưu trữ giá trị; nhưng không phải là tiền pháp định trong một quốc gia, vùng lãnh thổ nào; không được bất cứ một quốc gia, vùng lãnh thổ nào phát hành hoặc đảm bảo, các chức năng trên chỉ được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận trong cộng đồng người sử dụng của loại tiền ảo đó. Theo Tổ chức quốc tế về Tiêu chuẩn hóa thì “Tiền ảo dạng là tài sản vô hình không có thực, có tính chất tiền tệ tức có thể sử dụng nó làm phương tiện trao đổi hay một tài sản có giá trị trong một môi trường cụ thể. Từ các khái niệm trên, có thể hiểu Tiền ảo (vitual money) là dạng tiền điện tử không được chính phủ phát hành mà được tạo ra bởi những cá nhân hoặc tập thể. Tiền ảo thường được quản lý và kiểm soát bởi các nhà phát hành tư nhân, nhà phát triển hoặc tổ chức sáng lập. Và chỉ được công nhận và sử dụng trong một cộng đồng ảo cụ thể với những mục đích khác nhau. Tiền ảo có những đặc điểm sau: tiền ảo không được Ngân hàng Trung ương phát hành, không được nhà nước bảo hộ. Tiền ảo không có giá trị thực tiễn, chỉ được chấp nhận sử dụng trong một cộng đồng hoặc mô trường cụ thể. Tiền ảo không được đảm bảo khả năng chuyển đổi thành tiền pháp định. Và tiền ảo tồn tại phụ thuộc vào môi trường kỹ thuật số , không bị giới hạn số lượng.
Còn tiền kỹ thuật số hay tiền mã hóa (crytocurrency): được tạo ra bởi các thuật toán mã hóa phức tạp, có chức năng như công cụ trao đổi giá trị trong một hệ thống ngang hàng. Tiền mã hóa sử dụng kỹ thuật số và mật mã để bảo mật các giao dịch, đồng thời kiểm soát và xác minh các giao dịch mới. Tiền mã hóa hiện này không bị chi phối bởi chính phủ; không bị lạm phát hay làm giả; Không qua trung gian, được kiểm soát bởi một hệ thống phi tập trung; An toàn và bảo mật.
4. Những loại tiền ảo, tiền kỹ thuật số phổ biến:
Bitcoin là đồng tiền điện tử đầu tiên trên thế giới và đặt nền móng cho phát triển của thị trường Cryptocurrency (tiền mã hóa). Bitcoin sử dụng giao thức ngang hàng (peer-to-peer) cho tất cả các giao dịch và chính điều đó đã làm cho Bitcoin loại bỏ bước trung gian trong quá trình thực hiện giao dịch, giao dịch sẽ được thực hiện trực tiếp từ người gửi đến người nhận với phí giao dịch cực kỳ thấp (gần như bằng 0) mà không phải qua bất cứ tổ chức hay cá nhân trung gian nào.
Ethereum hiện là đồng mã hóa phổ biến thứ hai sau Bitcoin. Ethereum được Vitalik Buterin giới thiệu vào cuối năm 2013 và hệ thống được khởi động năm 2015. Năm nay, nhóm sáng lập Ethereum có kế hoạch thay đổi thuật toán PoW sang thuật toán PoS điều này cho phép mạng Ethereum vận hành ít hao tốn năng lượng hơn và cải thiện tốc độ giao dịch.
Altcoin (Alternative Coin) là tên gọi chung cho các loại tiền mô phỏng theo Bitcoin, được tạo ra với mục đích cải thiện nhược điểm của Bitcoin. Mặc dù một số loại Altcoin có những tính năng ấn tượng mà Bitcoin không có, chẳng hạn như khả năng xử lý nhiều giao dịch hơn mỗi giây hoặc sử dụng các thuật toán đồng thuận Proof of Stake
RIPPLE (XRP) là một loại tiền kỹ thuật số và hệ thống thanh toán mở, RIPPLE trở nên cực kỳ phổ biến kể từ khi phát hành vào năm 2012. Đây là một hệ thống phân tán mã nguồn mở vẫn còn nằm trong phân đọan Beta.
Litecoin có mặt từ năm 2011 và là một trong những loại tiền điện tử đầu tiên tiếp bước Bitcoin với dự định là phiên bản tốn ít tài nguyên hơn. Người tạo ra Litecoin là Charlie Lee – cựu sinh viên trường MIT và cựu kỹ sư của Google. Litecoin dựa trên mạng thanh toán toàn cầu mã nguồn mở, không bị kiểm soát bởi bất kỳ cơ quan nào, sử dụng thuật toán Scrypt làm PoW.
Cardano là loại tiền điện tử được tạo ra bởi một nhóm các kỹ sư, nhà toán học và chuyên gia mật mã. Người đồng sáng lập dự án là Charles Hoskinson – cũng là một trong 5 thành viên sáng lập ban đầu của Ethereum. Sau khi có sự mâu thuẫn nội bộ, ông đã rời đi để xây dựng dự án Cardano.
Tether thuộc nhóm tiền điện tử gọi là “stablecoin”. Vì các loại tiền tệ kỹ thuật số như Bitcoin thường xuyên biến động nên stablecoin như Tether được tạo ra với mục đích ổn định giá trị thị trường. Giá của Tether gắn với giá đồng USD.
Monero là loại tiền điện tử an toàn, không thể truy dấu, tập trung vào khả năng phân quyền, bảo mật thông tin cá nhân và khả năng mở rộng linh hoạt, cho nên Monero dễ dàng thu hút được sự quan tâm của cộng đồng và những người đam mê tiền mã hóa. Sự phát triển của Monero hoàn toàn dựa trên đóng góp cộng đồng. Monero bảo toàn quyền riêng tư của người dùng bằng một kỹ thuật đặc biệt gọi là “ring signature”.
Polkadot là loại tiền điện tử dùng thuật toán PoS nhằm mục đích cung cấp khả năng tương tác giữa các blockchain khác nhau. Người sáng lập Polkadot là Gavin Wood – cũng từng là thành viên trong nhóm nòng cốt của dự án Ethereum.
DigiByte (DGB) là một mã nguồn mở phát triển dựa trên nền tảng mã nguồn của Bitcoin và Litecoin, tốc độ của DigiByte đủ nhanh để mua một mặt hàng chỉ trong vài giây với một nút bấm trên điện thoại thông minh. DGB là một mật mã được phân cấp chuyên nghiệp và minh bạch đã được thiết kế để giải quyết một số điểm yếu của Bitcoin và Litecoin, và nó là một cryptocoin (tập hợp tin tức tiền mã hóa) phân cấp trên toàn cầu chủ yếu dành cho hàng hoá và dịch vụ.
Maker (hay còn gọi là MKR) là đồng tiền kỹ thuật số được xây dựng dựa trên nền tảng hợp đồng thông minh được triển khai trên Blockchain Ethereum. Nó được tạo ra nhằm mục đích làm ổn định giá của một đồng tiền điện tử khác tên là DAI thông qua các hợp đồng thông minh có tên là Collateralized Debt Positions (CDPs).
ChainLink là mạng lưới Oracle phi tập trung được thành lập năm 2017 bởi công ty Smart Contract Chainlink Ltd., có trụ sở tại Cayman Islands. ChainLink là cầu nối chuyển tiếp thông tin, dữ liệu từ thế giới thực vào Blockchain và ngược lại.