Nguyễn Dữ là nhà văn nổi tiếng với tác phẩm Chuyện Người con gái Nam Xương, hôm nay hãy cùng chúng tôi tìm hiểu một số bài Thuyết minh về tác giả Nguyễn Dữ và Chuyện người con gái Nam Xương qua bài viết dưới đây nhé.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý thuyết minh về tác giả Nguyễn Dữ và Chuyện người con gái Nam Xương:
1.1. Mở bài:
Giới thiệu vấn đề cần thuyết minh: Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ. (Chuyện người con gái Nam Xương là tác phẩm rất tiêu biểu của tác giả Nguyễn Dữ, để hiểu hơn về tác phẩm các em cùng tìm hiểu cụ thể hơn nhé).
1.2. Thân bài:
a. Thuyết minh khái quát
Chuyện người con gái Nam Xương là một trong 20 truyện trong tuyển tập Truyền kì mạn lục – tuyển tập tản mạn những truyện lạ được lưu truyền.
Là một truyện nổi tiếng được nhiều người biết đến, giàu giá trị nội dung và nghệ thuật.
Nhân vật: Vũ Nương, Trương Sinh, Phan Lang, Bé Dần,…
b. Lời giải chi tiết
Nhân vật chính: Vũ Nương – người phụ nữ đức hạnh, khao khát cuộc sống bình yên, hạnh phúc nhưng bị đẩy vào vòng bất công, bất hạnh.
Trương Sinh: chồng của Vũ Nương, người trực tiếp đẩy nàng đến bi kịch.
Bé Đản: con của Vũ Nương và Trương Sinh, khiến Trương Sinh nghi ngờ vợ mình.
Phan Lang: cầu cho Vũ Nương được gặp lại Trương Sinh, để Trương Sinh nói lời có lỗi với nàng.
Diễn biến: Truyện được kể theo trình tự thời gian.
c. Nội dung, nghệ thuật truyện
Nội dung: Số phận nghiệt ngã của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến đồng thời thể hiện phẩm giá cao quý của họ.
Nghệ thuật: kết hợp giữa tự sự và trữ tình, nghệ thuật dựng chuyện, miêu tả nhân vật.
1.3. Kết bài:
Truyện đã góp phần không nhỏ làm phong phú kho tàng văn học nước ta.
2. Thuyết minh về Nguyễn Dữ và Chuyện Người con gái Nam Xương hay nhất:
Nguyễn Dữ là nhà văn, quê Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc Thanh Miện, Hải Dương. Ông là con trai cả Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496), được trao chức Thừa chánh sứ, sau khi mất được tặng phong Thượng thư. Không rõ Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào, chỉ biết rằng ông sống cùng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm và người bạn cùng lớp Phùng Khắc Khoan, tức là vào khoảng thế kỷ 16 và để lại một tuyển tập truyện chữ Hán nổi tiếng được viết trong thời kỳ thời gian ở ẩn. Tập Truyền thuyết Mãn Lục được in 1768.
Truyền kì mạn lục là tác phẩm nổi bật nhất của Nguyễn Dữ. Sách gồm 20 truyện, chia làm 4 quyển, viết theo thể loại truyền kỳ. Cốt truyện chủ yếu lấy từ những câu chuyện được lưu truyền trong dân gian, nhiều trường hợp bắt nguồn từ truyền thuyết về các vị thần mà đền thờ của họ vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.
Nguyễn Dữ là con trưởng của Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496), được phong làm Thừa chánh sứ, sau khi chết được phong Thượng thư. Thuở nhỏ, Nguyễn Dữ học hành chăm chỉ, đọc nhiều, nhớ nhiều và ấp ủ lý tưởng theo học văn để nối nghiệp gia đình. Sau khi thi đỗ Hương Tiến, Nguyễn Dữ nhiều lần thi Hội và từng giữ chức vụ Tri huyện Thanh Tuyền nhưng mới được một năm thì ông xin từ quan về nuôi dưỡng mẹ già. Trải mấy năm dư không đặt chân đến những nơi đô hội, ông miệt mài “ghi chép” để gửi gắm ý tưởng của mình và đã hoàn thành tác phẩm “thiên cổ kỳ bút” Truyền kỳ mạn lục. Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào vẫn chưa có ai biết, nhưng căn cứ vào tác phẩm cùng bài Tựa Truyền kỳ mạn lục của Hà Thiện Hán viết năm Vĩnh Định thứ nhất (1547) có thể phỏng đoán ông sống khoảng thế kỉ mười sáu.
Ông không làm quan cho nhà Mạc mà chọn cách sống ẩn dật suốt quãng đời còn lại. Truyền thuyết Mạn Lục được hoàn thành vào những năm đầu thời kỳ này, ước tính vào khoảng những năm 20 đến 30 của thế kỷ 15. Theo Bùi Duy Tân và một số học giả viết lời tựa cho các bản dịch Truyền kì Mạn Lục còn được lưu giữ đến ngày nay thì ghi lại: “Chưa rõ Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sống đồng thời với thầy học là Nguyễn Bỉnh Khiêm, và bạn học là Phùng Khắc Khoan, tức là vào khoảng thế kỷ XVI và để lại tập truyện chữ Hán nổi tiếng viết trong thời gian ở ẩn, Truyền kỳ mạn lục (in 1768, A.176/1-2). Truyện được Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính và Nguyễn Thế Nghi sống cùng thời dịch ra chữ nôm. Truyền kỳ mạn lục gồm 20 truyện, viết bằng tản văn, xen lẫn biền văn và thơ ca, cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả, hoặc của một người cùng quan điểm với tác giả. Hầu hết các chuyện xảy ra ở đời Lý, đời Trần, đời Hồ hoặc đời Lê sơ từ Nghệ An trở ra Bắc. Lấy tên sách là Truyền kỳ mạn lục (Sao chép tản mạn những chuyện lạ), hình như tác giả muốn thể hiện thái độ khiêm tốn của một người chỉ ghi chép chuyện cũ. Nhưng căn cứ vào tính chất của các truyện thì thấy Truyền kỳ mạn lục không phải là một công trình sưu tập như Lĩnh Nam chích quái,”
Chuyện Người con gái Nam Xương là tác phẩm tiêu biểu trích trong Truỳền Kì Mạn Lục. Tác phẩm đã tái hiện lại nỗi đau của người phụ nữ tài hoa nhưng bạc mệnh của Vũ Nương. Qua đó, tác giả đã lên án chiến tranh tàn khốc, gây ra bao đau thương mất mát cho nhân dân.
Như vậy, tập Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ không chỉ giúp lưu dấu ấn tên tuổi của tác giả mà còn để lại nhiều bài học sâu sắc cho người đọc.
3. Thuyết minh về Nguyễn Dữ và Chuyện Người con gái Nam Xương ấn tượng nhất:
Tác giả Nguyễn Dữ không rõ năm sinh và mất. Ông sống vào khoảng thế kỷ 16. Ông quê ở huyện huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Khi ông còn sống, nhà Lê bắt đầu suy tàn, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực gây ra hàng loạt cuộc nội chiến kéo dài. Có giả thuyết cho rằng ông là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cha ông là thầy thuốc thời Lê Thánh Tông. Bản thân ông cũng là người có học thức, có tài, nhưng cũng như bao trí thức thời bấy giờ, ông chỉ làm quan được một năm rồi về quê sống ẩn dật. Các tác phẩm trước đây của ông bao gồm tác phẩm nổi chữ Hán Truyền Kỳ Mạn Lục, một tác phẩm thể hiện quan niệm sống và tấm lòng của ông đối với cuộc sống.
“Chuyện người con gái Nam Xương” là tác phẩm được rút trong tập truyện Truyền kì mạn lục của tác giả. Đây là một trong hai mươi truyện của tập sách này. Tác phẩm ghi lại cuộc đời thảm thương của Vũ Nương, quê ở Nam Xương (thuộc tỉnh Hà Nam) ngày nay.
Vũ Thị Thiết – cô gái đến từ Nam Xương, duyên dáng, khiêm tốn và nhân cách tốt. Nàng được Trương Sinh yêu quý vì đức độ nên chàng đã xin mẹ mang sính lễ đến hỏi cưới Vũ Nương. Chẳng bao lâu Trương Sinh phải nhập ngũ. Ở nhà, nàng sinh con và chăm sóc con chú đáo. Nửa năm sau, mẹ chàng lâm bệnh vì tuổi già sức yếu và nhớ con trai. Vũ Nương đã hết lòng lo cơm nước thuốc men cho mẹ chồng. Cô lo liệu tang lễ như cách cô làm cho cha mẹ ruột của mình.
Năm sau giặc rút lui, Trương Sinh trở về. Con trai mới tập nói nhưng chỉ vì lời nói ngây thơ của con mà Trương Sinh hiểu lầm là vợ đã thay lòng. Trương Sinh mắng cô và đuổi cô đi. Trước cảnh tượng đau buồn đó, Vũ Nương đã nhảy xuống sông Hoàng Giang tự sát. Sau khi nàng mất, Trương Sinh mới biết được sự thật rằng bé Đản gọi chiếc bóng ở tường là cha. Lúc này, chàng mới hiểu ra sự tình nhưng đã muộn.
Với nghệ thuật điêu luyện, bố cục chặt chẽ, chi tiết hoang đường, li kì, hấp dẫn, dùng chi tiết gợi mở, thắt nút cởi nút câu chuyện tài tình, giải quyết câu chuyện nhanh chóng, bất ngờ, kết thúc có hậu. Chuyện người con gái Nam Xương đã khẳng định được vẻ đẹp tâm hồn truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, đồng thời thể hiện niềm cảm thương cho số phận nhỏ nhoi, đầy tính chất bi kịch của họ dưới chế độ phong kiến. Qua đó, chúng ta thấy được tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Dữ.