Việt Nam là cái nôi của nền nghệ thuật đặc sắc với rất nhiều hình thức nghệ thuật khác nhau như: chèo, cải lương, tuồng, ca trù, dân ca quan họ,... Để giúp bạn đọc có thêm nhiều thông tin, chúng tôi xin mời bạn đọc tham khảo một số bài văn thuyết minh về một loại hình nghệ thuật trong bài viết sau.
Mục lục bài viết
1. Thuyết minh về nghệ thuật chèo:
Việt Nam, đất nước bốn ngàn năm lịch sử phong phú cùng với sự tồn tại của nhiều nền văn hóa, vùng miền và dân tộc khác nhau đã tạo nên một cái nôi nghệ thuật độc đáo với đa dạng các loại hình nghệ thuật. Tuy nhiên, nổi tiếng và được nhiều người yêu thích nhất chính là nghệ thuật chèo. Chèo đã trở thành một loại hình sân khấu độc đáo trong khu vực, đặc biệt là đối với vùng đồng bằng Bắc Bộ và Việt Nam nói chung.
Nghệ thuật chèo ban đầu có nguồn gốc ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, phần lớn phổ biến nhất từ vùng Nghệ Tĩnh trở ra. Chèo bắt nguồn từ hình thức nhại, diễn xướng dân gian của thế kỷ 11. Chèo bao gồm nhiều thể loại như ca, múa dân gian và văn học tích trì. Chèo mang âm hưởng của những làn điệu dân ca hài hước, những câu tục ngữ gần gũi với đời sống lao động của con người. Những câu chuyện dân gian, những bài ca đờn ca tài tử, những trò hề vui nhộn và những màn biểu diễn võ nghệ đã tạo nên một nghệ thuật chèo đặc sắc.
Nghệ thuật chèo thể hiện được tinh thần dân tộc, niềm vui, nỗi buồn, mong ước và khát vọng của người dân Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Ngoài ra, chèo còn là tiếng nói nhân đạo chân thành, quyết liệt đả kích cái ác và đề cao các giá trị chân, thiện, mỹ và lương tâm con người. Các vở chèo cổ, theo truyền thống phương Đông, thường có kết thúc có hậu, ca ngợi tình yêu thương, lòng bác ái giữa con người với nhau. Dù đã hơn chục thế kỷ trôi qua nhưng loại hình nghệ thuật này dường như chưa bao giờ mất đi sức hấp dẫn đối với khán giả ở mọi lứa tuổi, mọi quốc tịch. Có những thời điểm nghệ thuật chèo tưởng chừng như không thể trường tồn được nữa nhưng do giá trị tinh thần nên hình thức chèo dần được khôi phục và phát triển để bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc.
Chèo có cấu trúc đơn giản, linh hoạt và gần gũi với khán giả. Một vở chèo thường gồm có hai phần: phần đầu là phần giới thiệu nhân vật và bối cảnh, phần sau là phần kịch tính và kết thúc. Trong mỗi phần, có nhiều tiểu cảnh được xen kẽ bởi các bài hát, nhạc cụ và tiếng trống. Những tiểu cảnh này thường xoay quanh một chủ đề chính, như tình yêu, gia đình, xã hội, chiến tranh, cách mạng… Nhân vật trong chèo thường là những người bình dân, có tính cách rõ ràng và đặc trưng, như anh hùng, ác nhân, lương sĩ, tiểu thư, nông dân…
Nghệ thuật chèo là một nét đẹp trong văn hóa Việt Nam, được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại vào năm 2013. Chèo không chỉ là một loại hình giải trí mà còn là một phương tiện giáo dục, truyền bá và bảo tồn những giá trị truyền thống của dân tộc.
2. Thuyết minh về nghệ thuật múa rối nước:
Mỗi dân tộc đều có nét đặc trưng tinh thần riêng, thường trở thành bộ mặt và sự khẳng định cho nền độc lập của quốc gia đó. Người ta thường nói nhiều về ca trù, hát chèo, quan họ mà chúng ta quên rằng mỗi ngày khi diễn ra lễ hội, múa rối nước là tiết mục được mong đợi nhất. Hôm nay tôi muốn nói nhiều hơn về loại hình nghệ thuật độc đáo này.
Múa rối nước có nguồn gốc từ nền văn minh lúa nước ở vùng châu thổ sông Hồng. Theo một số tài liệu, múa rối nước đã ra đời từ thời nhà Lý (1010-1225), khi mà vua Lý Nhân Tông đã cho xây dựng một hồ nước rộng để tổ chức các buổi biểu diễn múa rối cho triều đình và quan lại xem. Sau đó, nghệ thuật này được truyền dạy từ đời này sang đời khác, và được phổ biến trong các làng quê, đặc biệt là ở các tỉnh Bắc Bộ như Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng, Nam Định, Ninh Bình…
Hiện nay, múa rối nước còn có thể so sánh với chèo, tuồng như một loại hình nghệ thuật cao cấp. Múa rối được biểu diễn ở nhiều nơi trên thế giới nhưng chỉ có nền văn minh lúa nước như Việt Nam mới có loại hình múa rối dưới nước. Thời gian chính là minh chứng rõ ràng nhất cho sự trường tồn vĩnh cửu của múa rối nước. Bởi đã tồn tại từ hàng ngàn năm, Việt Nam đã phát triển vô số phường múa rối nước. Nhà hát Múa rối Trung ương và Nhà hát Múa rối Thăng Long là nơi lưu giữ nhiều màn múa rối nước đặc sắc nhất để người dân có thể thưởng thức bất cứ lúc nào. Ngoài ra, chúng ta còn có các nhóm múa rối ngày càng phát triển như Hải Dương, Đào Thục, Đồng Ngư, làng Ra, v.v. Khi xã hội trở nên hiện đại hơn, mọi người muốn quay trở lại với những nền văn hóa phi vật chất như vậy, để tâm hồn được trở nên thanh lọc và tươi sáng hơn.
Nghệ thuật múa rối nước được coi là một sáng tạo đặc trưng và độc nhất vô nhị của người Việt Nam, được nhiều quốc gia trên thế giới ngưỡng mộ và công nhận. Múa rối nước có những đặc điểm riêng biệt so với múa rối khác, đó là dùng mặt nước làm sân khấu, phía sau có phông che để che giấu các nghệ nhân điều khiển con rối bằng hệ thống sào, dây, máy… Các con rối được làm bằng gỗ sung, có hình thù tươi tắn, ngộ nghĩnh, phản ánh tính cách của từng nhân vật. Nội dung của múa rối nước thường xoay quanh các chủ đề về cuộc sống, lịch sử, văn hóa, tôn giáo, tình yêu… của người Việt Nam. Múa rối nước còn kết hợp với ca hát, âm nhạc, tiết diễn, hề, hiệu ứng âm thanh, ánh sáng… để tạo ra những màn biểu diễn sinh động và hấp dẫn. Nghệ thuật múa rối nước đã trải qua nhiều thăng trầm trong lịch sử, nhưng vẫn được bảo tồn và phát triển bởi những người yêu nghề và có tâm huyết. Múa rối nước là một di sản văn hóa quý giá của dân tộc Việt Nam, góp phần làm phong phú và đa dạng cho nền văn hóa thế giới.
Bản lĩnh khi chiến thắng qua được hàng ngàn năm lịch và các cuộc đồng hóa của kẻ thù, văn hóa Việt Nam vẫn giữ được vẻ đẹp như vậy. Đến nay, nghệ thuật múa rối nước đã trở thành niềm tự hào của dân tộc Việt Nam mang ra khắp thế giới, để chứng tỏ dân tộc ta không hề thua kém ai.
Tôi sẽ mãi yêu những màn múa rối nước bình dị mà sâu sắc này. Vật chất không thể thay thế được những giá trị đã trở thành vĩnh cửu. Hãy tự hào vì chúng ta có một bộ môn mang tên múa rối nước!
3. Thuyết minh về nghệ thuật tuồng:
Đất nước Việt Nam chúng ta luôn tự hào về những giá trị văn hóa lâu đời được bảo tồn và phát triển qua nhiều thế kỷ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Một trong những giá trị văn hóa được bảo tồn là các loại hình nghệ thuật độc đáo như chèo, tuồng, dân ca Quan họ… Đặc biệt nghệ thuật Tuồng vẫn chiếm một vị trí rất quan trọng trong văn hóa dân gian và nghệ thuật của Việt Nam.
Nghệ thuật tuồng là một loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống của Việt Nam, có nguồn gốc từ Trung Quốc. Tuồng được hình thành từ thế kỷ 12, khi các nhà vua Lý và Trần mời các đoàn kịch Trung Quốc đến biểu diễn tại triều đình. Sau đó, tuồng được phổ biến rộng rãi trong nhân dân, đặc biệt là ở các vùng Bắc Bộ và Trung Bộ.
Tuồng có những đặc trưng riêng biệt về cách trang điểm, ăn mặc, diễn xuất và âm nhạc. Cách trang điểm trong tuồng được gọi là lý phấn, là một nghệ thuật cao cấp, thể hiện tính cách và vai trò của nhân vật. Lý phấn có nghĩa là sơn mặt, là một phương pháp dùng các loại màu sắc để tạo ra những hình ảnh đặc biệt trên khuôn mặt của diễn viên. Màu sắc của lý phấn có ý nghĩa biểu tượng, ví dụ như màu đỏ cho sự dũng cảm, màu trắng cho sự giả dối, màu xanh cho sự trung thành. Theo một số tài liệu, lý phấn tuồng xuất hiện từ thời Lê Long Đĩnh (1005), khi vua Lê thuê một kép hát Trung Quốc tên Liêu Thủ Tâm để dạy cung nữ ca hát trong cung. Liêu Thủ Tâm đã mang theo cách trang điểm của hí kịch Trung Quốc và dạy cho các cung nữ. Sau này, lý phấn tuồng được phát triển và biến đổi theo sự thay đổi của xã hội và văn hóa Việt Nam.
Các vai diễn trong tuồng được phân loại theo giới tính, tuổi tác, tính cách và địa vị xã hội. Các tác phẩm tuồng thường lấy chủ đề từ lịch sử, truyền thuyết, thần thoại hoặc cuộc sống xã hội.
Tuồng còn có những tên gọi khác như hát bội, hát bộ hay luông tuồng. Là một trong những hình thức khác với chèo, cải lương hay ca kịch, nghệ thuật tuồng có giọng ca hào hùng, hùng tráng, viết về những anh hùng, những người lính trung thành, những người yêu nước trung thành với tổ quốc, dân tộc, dám đứng lên, hy sinh bản thân vì sự nghiệp lớn lao. Các lực lượng chính nghĩa trong nghệ thuật tuồng uôn rơi vào những tình huống, hoàn cảnh đầy khó khăn, nguy hiểm. Thế nhưng, trước nghịch cảnh, họ luôn tỏa sáng với vẻ đẹp của những phẩm chất anh hùng như lý tưởng cao đẹp, niềm tin kiên định vào chiến thắng, lòng trung thành vô bờ bến, tinh thần anh hùng, lòng dũng cảm và sẵn sàng hy sinh tất cả vì sự nghiệp cao cả. Cuộc chiến chống lại đội quân phi nghĩa của họ diễn ra tràn đầy tinh thần, mỗi giây phút trôi qua đều để lại những cảm xúc mạnh mẽ trong lòng người xem. Ngoài ra, nghệ thuật tuồng còn dạy về lẽ phải, cách ứng xử giữa các cá nhân, cách ứng xử riêng – chung giữa gia đình và quê hương. Nội dung đạo đức đẹp đẽ của tuồng đã giúp môn nghệ thuật này có được sức sống lâu dài nhờ tính chất vô cùng đại chúng.
Ngày nay, nghệ thuật tuồng dân gian đang có nguy cơ dần mai một vì nhiều lý do. Ở Việt Nam, chúng ta gặp rất nhiều khó khăn trong việc khôi phục, giới thiệu và phát triển môn nghệ thuật này. Theo tôi, thế hệ trẻ chúng ta có vai trò vô cùng quan trọng trong việc học tập, bảo tồn và tuyên truyền nghệ thuật tuồng truyền thống để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và di sản tinh thần quý báu mà cha ông ta đã để lại.