Đền Bà Triệu là một di tích lịch sử nổi tiếng, trải qua thời gian đã nhuốm màu phong sương, cổ kính, mang đậm nét văn hóa truyền thống của Bắc Trung Bộ. Sau đây là các mẫu thuyết Minh về Di tích lịch sử đền Bà Triệu Thanh Hóa, mời các bạn tham khảo.
Mục lục bài viết
1. Thuyết Minh về Di tích lịch sử đền Bà Triệu Thanh Hóa chi tiết:
Trong lịch sử ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã sinh ra và nuôi dưỡng nhiều vị anh hùng dân tộc mà tên tuổi đã trở nên bất tử. Triệu Thị Trinh, nữ tướng mặc áo giáp vàng, đi guốc ngà, đeo trâm vàng, cưỡi voi trắng ra trận đánh giặc Ngô đã được mọi thế hệ người dân Việt Nam biết đến và tự hào. Bà là biểu tượng của lòng yêu nước nồng nàn, ý chí kiên cường, dũng cảm trước nguy hiểm trước kẻ thù xâm lược.
“Muốn cưỡi gió lớn, cưỡi sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh giặc Ngô, giành lại Giang Sơn, cởi bỏ ách nô lệ, nhưng tôi sẽ không khom lưng làm vợ lẽ ” Từ học sinh tiểu học, rồi đến các cấp học cao hơn, qua học tập Lịch sử, những câu nói mạnh mẽ, dũng cảm của Bà Triệu đã được nhiều thế hệ học sinh biết đến và ghi nhớ, như sự truyền lửa làm mạnh mẽ thêm tấm lòng yêu nước.
Bà Triệu tên là Triệu Thị Trinh hay còn gọi là Triệu Trinh Nương. Bà sinh ngày 2 tháng 10 năm Bính Ngọ (tức ngày 10) tại huyện Quan An, huyện Cửu Chân (nay thuộc xã Định Công, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa). Chứng kiến cảnh quê hương bị giặc giặc xâm lược và áp bức, đời sống nhân dân khốn cùng, bà đã cùng anh trai Triệu Quốc Đạt tập hợp các nhà hảo tâm lên đỉnh núi Nưa để mài kiếm và luyện võ để chuẩn bị nổi dậy chống giặc ngoại xâm. Nhân dân khắp vùng háo hức hưởng ứng khát vọng đánh giặc cứu nước của anh em nhà họ Triệu.
Cuộc khởi nghĩa do bà Triệu lãnh đạo được coi là đã “gây chấn động Giao Châu”, tạo nỗi kinh hoàng cho giặc Ngô. Sử sách ghi: Sau khi chọn núi Nưa làm căn cứ xây dựng lực lượng chuẩn bị khởi nghĩa, Bà Triệu đã lãnh đạo nhân dân nổi dậy, đánh các quận của quan nhà Ngô. Quân khởi nghĩa đánh tan quân Ngô nhiều trận, giết chết sử thứ hai Giao Châu. Khắp hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân nổi dậy đáp trả cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu. Trước sức mạnh của nghĩa quân, nhà Ngô sai danh tướng Lục Đan làm sử gia Giao Châu, đem 2 quân sang nước ta trấn áp phong trào khởi nghĩa. Lục Đan một mặt ra sức đàn áp dân chúng, mặt khác dùng thủ đoạn xảo quyệt như tiền bạc, vật phẩm, hứa phong tước cho các lãnh đạo địa phương. Từ đó, nhiều thủ lĩnh ở Giao Chỉ đã đầu hàng giặc. Quân khởi nghĩa Bà Triệu rơi vào tình trạng bị cô lập.
Trận chiến cuối cùng diễn ra vào ngày 22 tháng 2 năm Mậu Thìn, Bà Triệu đã anh dũng hy sinh tại núi Tung ở Bố Diễn (nay thuộc xã Triệu Lộc, Hậu Lộc, Thanh Hóa).
Sau này để tưởng nhớ Bà Triệu, nhân dân đã xây lăng trên đỉnh núi Tùng và xây đền trên sườn núi Gai, xã Triệu Lộc. Đền được xây dựng từ thời tiền Lý Nam Đế và được trùng tu nhiều lần. Lần gần đây nhất ngôi đền được trùng tu, tôn tạo là vào năm 2008.
Đến thăm đền Bà Triệu, nhiều người không khỏi xúc động, ngưỡng mộ và tự hào về vị nữ anh hùng dân tộc nên đã viết nhiều bài thơ, bài thơ về bà. Đền được quy hoạch trên diện tích 3,8 ha, hướng về phương Bắc. Hệ thống thờ cúng trong đền được sắp xếp theo quy luật thờ cúng các vị anh hùng dân tộc. Từ ngoài vào trong có: Ngoại tế – ao sen – bình phong – cửa giữa – sân dưới – sân trong – sân trên (hai bên đều có bên trái và bên phải) – tiền đường – sân thượng – đường giữa – sân Thiên Tỉnh – hậu cung. Hậu cung là tòa nhà có địa hình cao nhất, tựa vững chắc vào núi Gai.
Nhà hậu cung có kiến trúc bằng gỗ ba gian hai chái, hai tầng mái cong có 4 kèo gỗ, kết cấu đối diện nhau, có kết cấu “giá chiêng xếp bẫy”, 4 hàng cột. Hệ thống kèo được đỡ bởi hệ thống cột. Hoa văn trang trí trên khung là những tấm nổi, có khắc hình rồng, hoa sen. Gian giữa trong cùng là nơi đặt hương (phía trên ngai Bà Triệu và bàn thờ)… Đặc biệt, trong hậu cung có một số câu đối, đại tượng, nội dung nêu gương tốt, ca ngợi công ơn của Bà Triệu đối với quê hương. Cũng từ công lao to lớn, Bà Triệu đã trở thành người phụ nữ Việt Nam đầu tiên được các triều đại phong kiến phong làm “thánh nhân” và trở thành nữ anh hùng dân tộc tiêu biểu của đất nước qua mọi thời đại.
Cùng với hậu cung, các công trình của đền được quy hoạch hài hòa, cảnh quan đẹp, xanh tươi nhưng rất uy nghiêm và linh thiêng. Vì vậy, đền Bà Triệu được coi là một trong những di tích có cảnh quan, kiến trúc đẹp nhất của tỉnh Thanh Hóa. Năm 2015, nơi đây được vinh danh là Di tích Quốc gia, di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật đặc biệt.
2. Thuyết Minh về Di tích lịch sử đền Bà Triệu Thanh Hóa ngắn gọn:
Đền Bà Triệu là một di tích lịch sử – văn hóa đặc biệt và địa điểm du lịch tâm linh hàng đầu của tỉnh Thanh Hóa. Đền được xây dựng để tưởng nhớ công lao to lớn của nữ anh hùng dân tộc Triệu Thị Trinh, người có công đánh đuổi quân xâm lược Đông Ngô vào giữa thế kỷ thứ 3. Với kiến trúc độc đáo, mang đậm nét văn hóa truyền thống của Bắc Trung Bộ, ngôi đền đã để lại nhiều ấn tượng trong lòng nhiều du khách đến nơi đây.
Đền Bà Triệu nằm trên ngọn núi Gai (núi Ải), thuộc làng Phú Điền, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa và nằm sát quốc lộ 1A. Từ Hà Nội đến ngôi đền này là khoảng 137km. Đền thờ bà Triệu Thị Trinh, một người nữ anh hùng có công đánh đuổi giặc ngoại xâm Trung Quốc vào Việt Nam ở thế kỉ III sau Công Nguyên.
Ngôi đền có một lịch sử lâu đời, được xây dựng từ thời Tiền Lý (Lý Nam Đế) – thế kỷ thứ VI. Tương truyền, khi Lý Nam Đế đem quân đi dẹp giặc ở phương Nam, đã trú quân lại một đêm tại khu vực ngày nay là Đền Bà Triệu. Trong đêm đó, Bà Triệu được cho là đã báo mộng giúp vua. Dưới thời vua Minh Mạng (thế kỷ XVIII), công trình này được chuyển tới vị trí hiện tại và giữ nguyên cho tới bây giờ.
Đền Bà Triệu có kiến trúc đặc trưng của Bắc Trung Bộ, vừa trầm mặc, cổ kính nhưng cũng rất tinh tế. Công trình gồm có Nghi môn ngoại, Nghi môn nội, Hồ nước, Tam quan, Đình Tam Quan, Đình Thần Quan và chính điện. Mỗi khu vực đều có kiểu thiết kế riêng, tựu trung lại là một công trình quy mô, mang đậm nét văn hóa truyền thống của Bắc Trung Bộ.
Đây còn là nơi diễn ra lễ hội hàng năm vào ngày 18 tháng 3 âm lịch để tưởng nhớ công lao của bà và các anh hùng dân tộc. Lễ hội có nhiều hoạt động văn hóa – tín ngưỡng như: lễ cúng tế, rước kiệu, diễu hành, thi thể thao dân gian… thu hút hàng nghìn người dân trong và ngoài tỉnh về tham gia và chiêm bái.
Có thể nói, đền Bà Triệu không chỉ là một di tích lịch sử – văn hóa quan trọng của tỉnh Thanh Hóa mà còn là biểu tượng cho tinh thần yêu nước và anh hùng của dân tộc Việt Nam. Đến với Đền Bà Triệu, du khách không chỉ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp cổ kính và linh thiêng của ngôi đền mà còn được tìm hiểu về lịch sử, văn hóa và truyền thống của xứ Thanh.
3. Thuyết Minh về Di tích lịch sử đền Bà Triệu Thanh Hóa ấn tượng:
Đến với Thanh Hóa, có một điểm đến mà du khách nhất định phải ghé thăm, đó là đền Bà Triệu. Đền Bà Triệu là một di tích lịch sử – văn hóa đặc biệt của tỉnh Thanh Hóa, được xây dựng để tưởng nhớ công lao to lớn của nữ anh hùng dân tộc Triệu Thị Trinh, người có công đánh đuổi quân xâm lược Đông Ngô vào giữa thế kỷ thứ 3. Ngôi đền này nằm trên ngọn núi Gai (núi Ải), thuộc làng Phú Điền, huyện Hậu Lộc, cách Hà Nội khoảng 137km theo quốc lộ 1A .
Ngôi đền được xây dựng từ thời Tiền Lý (Lý Nam Đế) – thế kỷ thứ VI. Tương truyền, khi Lý Nam Đế đem quân đi dẹp giặc ở phương Nam, đã trú quân lại một đêm tại khu vực ngày nay là Đền Bà Triệu. Trong đêm đó, Bà Triệu được cho là đã báo mộng giúp vua. Dưới thời vua Minh Mạng (thế kỷ XVIII), công trình này được chuyển tới vị trí hiện tại và giữ nguyên cho tới bây giờ. Ngày 7-4-2015, Đền Bà Triệu được Chính phủ công nhận là di tích Quốc gia đặc biệt.
Ngôi đền này có kiến trúc vô cùng độc đáo, mỗi khu vực đều có kiểu thiết kế riêng, tựu trung lại là một công trình quy mô, mang đậm nét văn hóa truyền thống của Bắc Trung Bộ. Thứ nhất là nghi môn ngoại. Khu vực này được xây bằng đá nguyên khối với kiểu tứ trụ độc đáo. Đỉnh cột có chim phượng lá lật, chi tiết lồng đèn được chạm hình tứ linh, bức tường hai bên được chạm nổi tượng voi chầu. Thứ hai là hồ nước với chiều dài và chiều rộng lần lượt là 29.8m và 42.2m. Hồ tọa lạc đối diện với Nghi môn nội, có bậc thang lên xuống để thuận tiện cho việc tham quan. Thứ ba là nghi môn nội cũng được xây bằng đá nguyên khối, có ba cổng: cổng chính có hai cột chạm hình rồng cuốn mây, hai cổng phụ có hai cột chạm hình rồng cuốn hoa sen. Trên các cổng có ghi các câu chữ: “Đền Bà Triệu”, “Thần Tài”, “Thần Lộc”. Thứ tư là sảnh Tam Quan có mái ngói lợp theo kiểu hai mái gọi là mái chóp. Trên mái có các chi tiết như ngũ phụng, bát tiên, hoa sen… Sảnh Tam Quan có ba gian và hai hè, trong sảnh có treo các bia ghi lại các sự kiện lịch sử liên quan đến Đền Bà Triệu. Và cuối cùng là sảnh Thờ với mái ngói lợp theo kiểu hai mái chóp. Trong sảnh có bàn thờ, trên bàn thờ có bức tượng Bà Triệu bằng đồng, cao 1.2m, nặng 300kg. Bức tượng được đúc vào năm 1972, thể hiện hình ảnh Bà Triệu đang cưỡi voi, cầm kiếm chỉ huy quân đội.
Đền Bà Triệu là một ngôi đền linh thiêng, được người dân Thanh Hóa và khắp nơi trên cả nước kính trọng và tôn vinh. Đây cũng là một điểm du lịch hấp dẫn, thu hút nhiều du khách đến chiêm bái và khám phá kiến trúc độc đáo. Đền Bà Triệu không chỉ là một di tích lịch sử, mà còn là một biểu tượng của tinh thần yêu nước, anh hùng và bất khuất của dân tộc Việt Nam.