Đoạn trích "Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ" viết về tình cảnh và tâm trạng người chinh phụ phải sống cô đơn, mòn mỏi và buồn khổ trong thời gian dài người chồng đi đánh trận, không có tin tức, không rõ ngày trở về. Bài viết dưới đây sẽ hướng dẫn thuyết minh đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ để các bạn dễ dàng tìm hiểu tác phẩm.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý thuyết minh tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ:
1.1. Mở bài:
– Giới thiệu đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”.
1.2. Thân bài:
a. Tác giả, dịch giả:
Tác giả Đặng Trần Côn
Dịch giả Đoàn Thị Điểm, Phan Huy Ích
b. Tác phẩm:
* Thể loại:
Tác phẩm nguyên tác được viết theo thể trường đoản cú, bao gồm 476 câu thơ.
Bản dịch chữ Nôm được dịch giả dùng thể ngâm khúc, kết hợp với thể thơ song thất lục bát.
* Hoàn cảnh sáng tác:
Chinh phụ ngâm là một tác phẩm văn học Việt Nam được sáng tác vào đầu thời kỳ vua Lê Hiển Tông, khi đất nước đang gặp nhiều khó khăn do các cuộc khởi nghĩa của nông dân xảy ra liên tục quanh kinh thành Thăng Long. Triều đình đã phải cất quân để đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa này.
Trong hoàn cảnh đó, nhiều thanh niên trai tráng đã phải lên đường tòng quân, để lại vợ con ở nhà trong nỗi sầu muộn và thương nhớ mòn mỏi. Chinh phụ ngâm đã miêu tả chân thực tình cảm đau đớn của những người phụ nữ này, khi phải đối mặt với nỗi buồn lỡ thời gian, nỗi cô đơn đơn côi, nỗi nhớ nhung thấu đáo đến từng tế bào trong cơ thể.
* Nội dung:
Thể hiện sự oán ghét chiến tranh phi nghĩa và bộc lộ tâm trạng khao khát tình yêu và hạnh phúc lứa đôi của con người, là nét mới trong cảm hứng nhân đạo văn học thế kỷ XVIII.
c. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ:
* Vị trí:
– Nằm từ câu thứ 193 đến câu 216 của bản diễn Nôm.
* Mạch cảm xúc:
Phần 1: Thế giới tâm trạng của người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm được diễn tả qua những hành động lặp đi lặp lại, thể hiện sự chờ mong khắc khoải, bồn chồn và nỗi cô đơn trống vắng đến tội nghiệp của người chinh phụ. Tác giả Đặng Trần Côn không chỉ diễn tả tâm trạng của nhân vật trữ tình bằng những hành động vô thức lặp lại, mà còn thông qua hình ảnh ngọn đèn vô tri vô giác, người bạn duy nhất để người chinh phụ chia sẻ nỗi buồn rầu bi thiết của mình.
Phần 2: Tiếng gà “eo óc”, cành hòe phất phơ yếu đuối lại càng có giá trị tương hỗ diễn tả cái cảnh triền miên, khắc khoải của chinh phụ trong cô đơn lẻ loi. Đặng Trần Côn đã tận dụng hình ảnh thiên nhiên để tạo nên một bối cảnh đầy u ám, lạnh lẽo, cùng với đó là cảm giác cô đơn, tuyệt vọng của người chinh phụ.
Phần 3: Người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm đã cố gắng vượt qua nỗi cô đơn và nỗi nhớ bằng nhiều hành động khác nhau nhưng dường như nỗi nhớ, nỗi cô đơn lại càng trở nên mãnh liệt hơn. Tác giả đã sử dụng các hình ảnh ví dụ như đốt hương, trang điểm, gảy đàn để diễn tả tình trạng của người chinh phụ.
Phần 4: Nỗi cô đơn trống trải của người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm tiếp tục được gửi gắm thông qua các hình ảnh thiên nhiên. Tác giả đã miêu tả cảnh tượng của một bầu trời đầy sao rực rỡ, trong đó người chinh phụ cảm thấy mình đơn độc và lạc lõng giữa không gian bao la. Các cảnh tượng thiên nhiên này càng tăng thêm sự u ám và cô đơn của người chinh phụ.
* Đặc sắc nghệ thuật:
Thành công trong việc miêu tả, bộc lộ tâm trạng nhân vậ.
Thể thơ song thất lục bát có tính nhạc điệu, cùng với hệ thống từ láy giàu phong phú.
1.3. Kết bài:
– Khái quát lại nội dung, nghệ thuật tiêu biểu của đoạn trích.
2. Sơ đồ tư duy hướng dẫn khái quát nội dung đoạn trích:
3. Thuyết minh đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ:
Người chinh phụ thuộc dòng dõi quý tộc, đã tiễn chồng ra trận với hy vọng người chồng sẽ thành công và trở về trong sự giàu có và danh vọng. Nhưng cơn chiến tranh liên miên và cuộc phân tranh kéo dài của Lê-Mạc và Trịnh-Nguyễn đã làm cho đất nước tan rã, phân chia thành hai nửa và đẩy người dân vào cảnh đau khổ, xa cách và loạn lạc. Trong bối cảnh đó, tâm trạng cô đơn và bất hạnh của người chinh phụ được thể hiện rõ qua khúc ngâm và các hành động lặp đi lặp lại của nàng. Văn học thời kỳ đó tập trung phản ánh những thực tế tàn bạo và thối nát của chế độ phong kiến, cùng với nỗi đau khổ của con người trong cuộc sống loạn lạc. Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn đã nhận được sự đồng cảm của nhiều nhà văn và được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau, trong đó bản dịch của Đoàn Thị Điểm được coi là thành công nhất vì nó truyền tải được cảm xúc sâu sắc của tác giả.
Hình tượng nổi bật của Chinh phụ ngâm là hình tượng người chinh phụ héo mòn trong trông ngóng chờ đợi với ước vọng công hầu và khát khao hạnh phúc lứa đôi. Và ở họ luôn tự hào về hình ảnh người chồng ra chiến trận:
Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt
Xếp bút nghiên theo việc đao cung
Thành liền mong tiễn bệ rồng
Thước gươm đã quyết chẳng dong giặc trời
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao
Sau những ngày dài chờ đợi chồng trong sự tuyệt vọng, người chị phụ trong tác phẩm Chinh phụ ngâm đã rơi vào tâm trạng cô đơn và tuyệt vọng, và cất lời oán trách. Tác phẩm được phát triển theo mạch tâm trạng và nỗi nhớ nhung của người chị phụ, chỉ tập trung vào cảm xúc và tình trạng tâm lý của nhân vật chính từ đầu đến cuối tác phẩm. Khúc ngâm thể hiện rõ ràng sự oán trách về chiến tranh phong kiến đã cướp đi hạnh phúc của cặp đôi.
Tâm trạng của người chị phụ được diễn tả qua những từ ngữ chỉ ngoại hình, tả hành động và tả việc làm của nhân vật. Tuy cùng nhau chịu đựng nỗi cô đơn, nhưng sự khác biệt giữa người chị phụ và người thiếu phụ trong tác phẩm Khuê oán của Vương Xương Linh là người thiếu phụ vẫn giữ được vẻ vô tư và trang điểm má hồng để lên lầu biếc ngắm cảnh xuân, chỉ khi nhìn thấy màu dương liễu mới tỉnh lại và nhận ra cảnh ngộ cô đơn của mình. Trong khi đó, người chị phụ vẫn chìm đắm trong nỗi cô đơn với sự trông đợi mỏi mòn và vô vọng đã khiến nàng trễ nải cả việc điểm phấn tô son – công việc quan trọng nhất của người phụ nữ nơi gác tía lầu son như nàng.
Trâm cài xiêm thắt thẹn thùng,
Lệch vòng tóc rối, lỏng vòng lưng eo.
Nỗi đau buồn của người thiếu phụ trong cảnh đợi chồng đi chiến trận đã khiến nàng mất hết sức lực, héo mòn như người mộng du:
Há như ai hồn say bóng lẫn,
Bỗng thơ thơ thẩn thẩn như không.
Sự chờ đợi vô vọng đã khiến cho người thiếu phụ trở nên tê liệt cả tinh thần. Tác giả đã miêu tả bộ dáng bên ngoài của người phụ nữ để lộ trạng thái tâm lý phức tạp đang diễn ra trong nội tâm của cô. Bộ dáng mệt mỏi và buông xuôi của người thiếu phụ đã bộc lộ rõ nỗi cô đơn đang giày vò tâm trí và thể chất của cô, khiến cho cô nhạt phai và tàn nhẫn. Nỗi cô đơn tràn ngập cả không gian và thời gian, ngày đêm không khác gì nhau. Trong căn phòng chỉ có người thiếu phụ đối mặt với ngọn đèn, tình cảnh lẻ loi và tội nghiệp càng trở nên rõ ràng hơn. Nàng chỉ có bản thân mình trong sự cô đơn và sự chờ đợi vô vọng, giống như là một đóa hoa quên lãng trên cành đang mong chờ sự xuất hiện của tình yêu.
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Giữa không gian tĩnh lặng của đêm, tiếng bước chân chậm rãi như lời thì thầm của sự cô đơn đơn độc. Trong tác phẩm “Buổi sáng mùa đông” của Pu-skin, con đường vắng lặng và tiếng lục lạc đơn điệu khiến người chinh phụ cảm thấy cô đơn hơn. Nỗi đau thầm lặng nhưng quá lớn ấy khiến nàng khao khát sự đồng cảm. Nhưng chỉ có ngọn đèn đối diện với nàng mà thôi. Liệu ngọn đèn có thấu hiểu được không, hay chỉ đơn thuần là vật thể vô tri vô giác? “Có biết dường bằng chẳng biết”, chỉ có nàng và nỗi cô đơn của nàng mới cảm nhận được trọn vẹn sự đau đớn và nhung nhớ trong lòng. Đó là sự cô đơn của người thiếu phụ, nhưng cũng là của tất cả chúng ta, trong những lúc cô đơn, ta không thể tìm thấy ai để chia sẻ, chỉ có nỗi cô đơn đơn độc và ngọn đèn đối diện.
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.
Cảnh vật không san sẻ mà cộng hưởng cùng nỗi sầu của người chinh phụ khiến nàng đau càng đau, sầu càng sầu, nỗi chờ đợi ngày càng vô vọng. Nhưng dường như người thiếu phụ đang bị nỗi nhớ gặm nhấm:
Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
Dịch giả đã sử dụng những từ ngữ phù hợp với tiếng Việt như “sầu muộn”, “lặng lẽ”, để tả cảnh và cảm xúc của Thuý Kiều trong thời gian đợi chờ Kim Trọng. Sự lặng lẽ của đêm tối, chỉ có tiếng đồng hồ đếm từng giây trôi qua chậm rãi, như một lời nhắc nhở về thời gian đang trôi đi mà không biết khi nào sẽ kết thúc. Bên cạnh đó, những cành cây khô héo, buông xuống như những lời tiên tri về tương lai không đáng mong chờ, làm tăng thêm nỗi sầu muộn trong lòng Thuý Kiều. Một mình trong cõi đời đầy sóng gió, người con gái trẻ này đang đợi chờ người mình yêu thương với hy vọng và nỗi lo lắng tràn đầy trong lòng.
Sầu đong càng lắc càng đầy,
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê!
Giống như tâm trạng người chinh phụ chờ chồng:
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Trong bao cảm giác mênh mông của thời gian và không gian, người chinh phụ nhỏ bé và cô đơn đã cố gắng thoát khỏi cảnh tuyệt vọng bằng cách trang điểm và chơi đàn. Nhưng mỗi lần chạm đến đều là một nỗi đau và cô đơn đơn chiếc lại trỗi dậy. Khi nhìn vào gương, nàng thấy nước mắt rơi dài bởi gương mặt thanh xuân đang mỏi mòn dần và thời gian đang phũ phàng trôi qua. Tiếng đàn loan phượng thì gợi lại kí ức chia ly với chồng vợ.
Tác phẩm Thúy Kiều đã khéo léo tả lại những cảm xúc, nỗi đau đớn và mong muốn của người chinh phụ trong viễn cảnh lịch sử thời kì phong kiến thế kỉ XVIII. Mặc dù tác phẩm không đề cập cụ thể đến bất kỳ cuộc chiến tranh nào, nhưng có thể cảm nhận được sự ám ảnh của những cuộc chiến tranh phi nghĩa và các cuộc cạnh tranh giành quyền lực trong thời đại đó.
Tác giả và dịch giả đã mô tả tình trạng cô đơn, sự chán nản và tuyệt vọng của người chinh phụ, những cảm xúc chung của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến đó. Họ mong muốn hạnh phúc lứa đôi, nhưng đối diện với những khó khăn, thử thách và nỗi đau đớn trong cuộc sống.
Tác phẩm Thúy Kiều là một bức tranh sắc nét về cuộc sống và xã hội trong thời kì phong kiến thế kỉ XVIII, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tâm lý và hoàn cảnh của những người phụ nữ trong xã hội đó.
Dịch Chinh phụ ngâm, dịch giả đã chọn thể thơ song thất lục bát, một thể thơ dân tộc được sử dụng rộng rãi để thể hiện tâm trạng của nhân vật, đặc biệt là tâm trạng buồn đau, sầu muộn. Dịch giả đã dịch rất tinh tế nội dung của nguyên tác, thể hiện chân thật nỗi buồn của người chịu khổ phương Đông, mãnh liệt, sâu sắc nhưng kín đáo. Chinh phụ ngâm đã ghi dấu một bước tiến vượt bậc của ngôn ngữ văn học dân tộc. Với tác phẩm này, tiếng Việt đã chứng tỏ khả năng diễn tả tư tưởng và tình cảm một cách sâu sắc, tinh tế.
Với tấm lòng thương yêu và sự cảm thông sâu sắc với những khát khao hạnh phúc chính đáng của người chịu khổ, tác giả và dịch giả đã kêu gọi nhân đạo, phản đối chiến tranh phi nghĩa. Thái độ phản chiến tuy không được bộc lộ trực tiếp nhưng lại rất mạnh mẽ. Chiến tranh đã cướp đi niềm hạnh phúc và tuổi trẻ của con người, thậm chí còn cướp đi cả mạng sống. Vì một cuộc chiến, bao người vợ phải xa chồng, phải giam mình trong nỗi cô đơn, buồn tủi như người chịu khổ kia. Có người may mắn được đón chồng trở về khi tóc đã pha sương, nhưng cũng có người đau xót đón tin chồng không trở về sau những ngày mỏi mòn trông đợi.
“Vì ai gây dựng cho nên nỗi này” không chỉ là lời oán thán nặng nề nhất trong Chinh phụ ngâm, mà còn là một giá trị văn học đáng quý, vì nó thể hiện được sự uất ức và oán trách của người phụ nữ trong một thời đại đầy khó khăn và bất công. Tuy nhiên, giá trị cao hơn cả của tác phẩm là sự tiếp nối xuất sắc cảm hứng nhân đạo của văn học dân tộc, cho thấy sự ủng hộ và chia sẻ với những khao khát hạnh phúc chính đáng của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Tác phẩm này đem đến cho đề tài về thân phận người phụ nữ một tiếng nói mới đầy sức mạnh nhân văn, thể hiện sự đồng cảm và tình người, góp phần khơi dậy những ý thức về bình đẳng giới tính và nhân quyền.