Thương lượng tập thể là gì? Đặc điểm của thương lượng tập thể? Vai trò của thương lượng tập thể? Quy trình thương lượng tập thể?
Thương lượng tập thể từ lâu đã trở thành một nguyên tắc cơ bản trong lao động. Đây cũng được coi là một quyền, có vai trò thúc đẩy các quyền và lợi ích khác, cải thiện mối quan hệ trong lao động trở nên bình đẳng hơn, chế độ và môi trường làm việc cũng được nâng cao hơn.
Mục lục bài viết
1. Thương lượng tập thể là gì?
– Theo quy định tại Điều 65
Thương lượng tập thể là việc đàm phán, thỏa thuận giữa một bên là một hoặc nhiều tổ chức đại diện người lao động với một bên là một hoặc nhiều người sử dụng lao động hoặc tổ chức đại diện người sử dụng lao động nhằm xác lập điều kiện lao động, quy định về mối quan hệ giữa các bên và xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định.
Vậy hiểu đơn giản, thương lượng tập thể là việc đàm phán, thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động nhằm xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định. Đồng thời giúp xác lập các điều kiện lao động để ký kết thỏa ước lao động tập thể.
Thương lượng tập thể hỗ trợ khả năng thích ứng của doanh nghiệp và nền kinh tế trong bối cảnh khủng hoảng.
2. Đặc điểm của thương lượng tập thể:
Trong quan hệ lao động (QHLĐ), thương lượng được hiểu là một quá trình thỏa thuận nhằm đạt tới sự thống nhất ý chí giữa người sử dụng lao động (NSDLĐ) và người lao động (NLĐ) về việc mua bán, sử dụng hàng hóa sức lao động và giải quyết những vấn đề phát sinh trong QHLĐ. Trong đó, thương lượng tập thể là cách thức được Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đặc biệt quan tâm, khuyến khích thực hiện vì ý nghĩa và tầm quan trọng của nó trong việc ổn định QHLĐ. Đối với nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là các quốc gia phát triển, “thương lượng tập thể” là một khái niệm quen thuộc. Nhưng ở Việt Nam, nó lại là một khái niệm khá mới mẻ, nhất là ở phương diện pháp lý.
Điều 2 Công ước số 154 (năm 1981) của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về xúc tiến thương lượng tập thể được coi là khái niệm chính thức về thương lượng tập thể: “Trong Công ước này, thuật ngữ “thương lượng tập thể” áp dụng cho mọi cuộc thương lượng giữa một bên là một NSDLĐ, một nhóm NSDLĐ hoặc một hay nhiều tổ chức của NSDLĐ, với một bên là một hay nhiều tổ chức của NLĐ, để:
a) Quy định những điều kiện lao động và sử dụng lao động;
b) Giải quyết những mối quan hệ giữa những NSDLĐ với những NLĐ;
c) Giải quyết những mối quan hệ giữa những NSDLĐ hoặc các tổ chức của họ với một hoặc nhiều tổ chức của NLĐ”.
Có thể thấy, chủ thể trong thương lượng tập thể sẽ bao gồm đại diện của các bên trong QHLĐ tập thể; đồng thời, mục đích của thương lượng tập thể nhằm giải quyết các vấn đề có liên quan đến lợi ích tập thể của NLĐ và NSDLĐ trong QHLĐ chủ yếu là xác lập các điều kiện lao động, điều kiện sử dụng lao động và vấn đề việc làm hoặc điều tiết các QHLĐ. Thương lượng tập thể có thể xem là hình thức đối thoại xã hội ở mức cao nhất. Điều này có nghĩa là, nếu sử dụng nó một cách hiệu quả sẽ đạt được những kết quả rất tích cực.
Nếu thương lượng tập thể được sử dụng như một biện pháp để xác lập những thỏa thuận chung giữa các bên về điều kiện lao động, việc làm, tiền lương… thì kết quả cao nhất của thương lượng tập thể chính là sự ra đời của thỏa ước tập thể. Hoặc nếu thương lượng tập thể được sử dụng như một phương thức để giải quyết các tranh chấp lao động tập thể thì kết quả của việc thương lượng thành công sẽ dẫn tới thỏa thuận chung giữa các bên tranh chấp để giải quyết nội dung tranh chấp đó. Chính vì vậy, ILO cũng khuyến cáo các nước thành viên về việc nên nhìn nhận thương lượng tập thể như một quá trình trao đổi, thảo luận và thống nhất ý chí giữa các bên về một hoặc một số vấn đề chung liên quan đến lợi ích của tập thể NLĐ và NSDLĐ trong QHLĐ ở các cấp độ khác nhau.
3. Vai trò của thương lượng tập thể:
Một là, chất lượng làm việc
Đầu tiên thương lượng lao động tập thể sẽ đem lại chất lượng làm việc tốt hơn vì cả hai bên đều đồng thuận, và cảm thấy hài lòng về các điều khoản cam kết trong thỏa ước lao động. NLĐ và NSDLĐ đều có được những quyền lợi nhất định và có những nghĩa vụ và cam kết phải tuân theo.
Hai là, sự công bằng
Một trong những lợi ích lớn nhất mà thương lượng tập thể mang lại đó là tính công bằng trong công việc, quản lý, đem đến sự tin tưởng, và tránh được nhiều tranh chấp lao động không đáng có đã có một cơ chế minh bạch, rõ ràng được hai bên thỏa thuận và đồng thuận.
Ba là, đào tạo
Thương lượng tập thể là cơ hội tốt để doanh nghiệp đánh giá được nguồn nhân lực đang có và hiểu được thêm những khó khăn hay mong muốn năng cao tay nghề, kỹ năng mà NLĐ đang cần. Từ đó, doanh nghiệp và đại diện công đoàn hay các tổ chức khác có thể phối hợp với nhau để thiết kế và triển khai các khóa đào tạo theo cấp doanh nghiệp hay cấp tỉnh.
Bốn là, quan hệ lao động
Thương lượng lao động tập thể giúp tăng cường đối thoại giữa NSDLĐ và NLĐ và góp phần giúp bình ổn hóa và củng cố quan hệ lao động giữa NSDLĐ và NLĐ. Thương lượng lao động tập thể tạo ra một cơ chế dân chủ nơi mà tiếng nói của NSDLĐ và NLĐ được lắng nghe, thấu hiểu và đồng thuận. Thỏa ước lao động tập thể có thể xem là một bộ quy tắc ứng xử giữa quản lý và công nhân được hai bên đồng thuận và cam kết tuân theo. Bộ quy tắc ứng xử này không chỉ đơn thuần văn hóa nhà xưởng, quan hệ lao động tại nơi làm việc mà còn mang tính chất pháp lý.
Năm là, hoạt động của doanh nghiệp
Thương lượng lao động tập thể mang lại những tác động tích cực đến hoạt động của doanh nghiệp nhờ sự chia sẻ thông tin thường xuyên giữa NLĐ và NSDLĐ giúp việc phổ biến chính sách, thông tin và khuyến khích sự tham gia của người lao động trong các hoạt động của doanh nghiệp.
4. Quy trình thương lượng tập thể:
Quy trình này gồm 03 bước cơ bản:
– Đề xuất yêu cầu thương lượng tập thể:
+ Trong quá trình thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ lao động, nếu các bên (tập thể lao động hoặc người sử dụng lao động) thấy cần phải thương lượng tập thể thì có quyền yêu cầu phía bên kia thương lượng tập thể. Bên nhận được yêu cầu không được từ chối việc thương lượng.
+ Trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu thương lượng, các bên thỏa thuận thời gian bắt đầu phiên họp thương lượng.
– Chuẩn bị thương lượng tập thể:
+ Về phía người sử dụng lao động: Trước phiên họp thương lượng tập thể ít nhất 10 ngày, người sử dụng lao động phải cung cấp thông tin về tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh, khi tập thể lao động yêu cầu trừ những bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ của người sử dụng lao động.
+ Về phía tập thể lao động: Đại diện thương lượng của bên tập thể lao động phải tổ chức lấy ý kiến trực tiếp của tập thể lao động hoặc gián tiếp thông qua hội nghị đại biểu của người lao động về đề xuất của người lao động với người sử dụng lao động và các đề xuất của người sử dụng lao động với tập thể lao động.
+ Chậm nhất 05 ngày làm việc trước khi bắt đầu phiên họp thương lượng tập thể, bên đề xuất yêu cầu thương lượng tập thể phải
– Tiến hành thương lượng tập thể
+ Được thực hiện thông qua phiên họp thương lượng tập thể, do người sử dụng lao động chịu trách nhiệm tổ chức phiên họp thương lượng tập thể theo thời gian, địa điểm do hai bên đã thỏa thuận.
+ Việc thương lượng tập thể phải được lập biên bản, có những nội dung đã được hai bên thống nhất, thời gian dự kiến ký kết về các nội dung đã đạt được thoả thuận với đầy đủ chữ ký của đại diện tập thể lao động, của người sử dụng lao động.
+ Trong thời gian 15 ngày, kể từ ngày kết thúc phiên họp thương lượng tập thể, đại diện thương lượng của bên tập thể lao động phải phổ biến rộng rãi, công khai biên bản phiên họp thương lượng tập thể cho tập thể lao động biết.
+ Trường hợp thương lượng không thành một trong hai bên có quyền tiếp tục đề nghị thương lượng hoặc tiến hành các thủ tục giải quyết tranh chấp lao động theo quy định của
Thương lượng tập thể là một trong những cách thức hiệu quả nhằm xây dựng mối quan hệ lao động ổn định và bền vững. Về cơ bản, các quy định của pháp luật Việt Nam về thương lượng tập thể được đánh giá là thống nhất và tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, các quy định này vẫn còn bỏ sót một số nội dung quan trọng, khó áp dụng hoặc mới chỉ được áp dụng trong phạm vi hẹp. Do đó, cần có sự thay đổi, hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật liên quan về thương lượng tập thể.