Quy định việc kiểm sát thi hành quyết định áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Quy định về kiểm sát sử dụng thông tin, tài liệu thu thập được bằng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.
Mục lục bài viết
1. Quy định việc kiểm sát thi hành quyết định áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt:
Sau khi phê chuẩn quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, Kiểm sát viên thụ lý giải quyết vụ án phải kiểm sát chặt chẽ việc thi hành việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt và thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt để kịp thời báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng.
Viện kiểm sát cần kiểm sát chặt chẽ về thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Cụ thể cần sát sao theo dõi để đảm bảo thời hạn được áp dụng các biện pháp này không quá 02 tháng tính từ ngày Viện trưởng Viện kiểm sát phê chuẩn.
Kiểm sát viên phải đối chiếu thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt quy định tại điều 226 Bộ luật TTHS với thời hạn ghi trong quyết định xem thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt đó có đúng với tội phạm đang được áp dụng hay không? Cụ thể: Thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt là 02 tháng kể từ ngày được Viện trưởng Viện kiểm sát phê chuẩn. Khi tính thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt phải căn cứ vào thời hạn thực tế được ghi trong quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt và tính liên tục cả ngày nghỉ (thứ bảy, chủ nhật, ngày lễ, ngày tết) nếu thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt trùng vào ngày nghỉ, thời hạn hết vào ngày kết thúc thời hạn được ghi trong quyết định.
Trong quá trình áp dụng, Viện kiểm sát phải thường xuyên đôn đốc về tiến độ cũng như yêu cầu
Do đó, khi tiến hành gia hạn, Viện kiểm sát cũng phải đối chiếu quy định của BLTTHS về thời hạn điều tra đối với loại tội đang được áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt để không xảy ra sai sót. Thời điểm hiện tại chưa có văn bản hướng dẫn về các trường hợp được coi là phức tạp, tuy nhiên về mặt lý luận có thể hiểu đó có thể là các vụ án nhiều bị can, các bị can có đặc điểm ngoan cố, chống đối, tinh vi xảo quyệt, hành vi phạm tội diễn ra với quy mô lớn, trên diện rộng, xuyên quốc gia, các đối tượng phạm tội có sự kín kẽ trong che giấu tội phạm kết cấu chặt chẽ về tổ chức, có sự đề phòng và cảnh giác cao độ với cơ quan điều tra.
Đối với các tội phạm này, việc áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt trong thời gian 02 tháng là chưa đủ để thu thập chứng cứ, hoặc cần thiết kéo dài thêm vì phát hiện ra nhiều tình tiết phức tạp có liên quan đòi hỏi cần thời gian để tiếp tục thu thập tài liệu, chứng cứ thì có thể gia hạn nhưng không quá thời hạn điều tra theo quy định của BLTTHS năm 2015. Nếu trong trường hợp cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể thì Viện kiểm sát cần nghiên cứu kĩ để vận dụng trong hoạt động kiểm sát của mình. Để quyết định việc gia hạn có thể được Viện kiểm sát cần kiểm tra kỹ về thời điểm Thủ trưởng Cơ quan điều tra đã ra quyết định áp dụng gửi văn bản đề nghị đến mình tối thiểu là 10 ngày trước khi hết thời hạn theo quyết định ban hành trước đó.
Nếu thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt còn không quá 10 ngày mà CQĐT chưa có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt thì Kiểm sát viên trao đổi với Điều tra viên để phối hợp xem xét. Trong thời hạn 5 ngày trước khi hết hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, Kiểm sát viên thụ lý vụ án báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng quyết định một trong các phương án xử lý việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt như: yêu cầu CQĐT có văn bản đề nghị VKS ra quyết định huỷ bỏ áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt; Viện kiểm sát trực tiếp huỷ bỏ việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, gia hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Nếu còn thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt nhưng thấy biện pháp áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt không còn cần thiết thì yêu cầu CQĐT có văn bản đề nghị VKS ra quyết định huỷ bỏ biện pháp áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.
2. Quy định về kiểm sát sử dụng thông tin, tài liệu thu thập được bằng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt:
Cần đảm bảo yếu tố bí mật trong quá trình tiến hành hoạt động điều tra tố tụng đặc biệt. Khi xem xét áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt tại Điều 223 BLTTHS năm 2015 (như ghi âm, ghi hình, nghe điện thoại, thu thập dữ liệu điện tử) đều phải được đảm bảo bí mật. Điều này phân biệt với các biện pháp điều tra tố tụng thông thường khác quy định tại BLTTHS năm 2015 như: Điều 107 (thu thập phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử); Điều 196 (thu giữ phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử); Điều 183 (hỏi cung bị can, trong đó quy định việc hỏi cung bị can phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh); Điều 191 (nhận biết giọng nói). Các biện pháp điều tra thông thường và các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt có thể có cùng một hoạt động nhưng lại khác nhau về cách thức tiến hành, đối tượng tác động, mục đích sử dụng. Đặc biệt, nếu như các biện pháp điều tra thông thường được tiến hành công khai thì các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt phải được tiến hành bí mật. Các trường hợp áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt bao gồm:
Tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tham nhũng, khủng bố, rửa tiền, tội phạm khác có tổ chức thuộc loại đặc biệt nghiêm trọng. Đây đều là những loại tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng với phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, ảnh hưởng đặc biệt lớn đến nền an ninh quốc gia, chế độ chính trị, kinh tế của đất nước. Đa số các đối tượng phạm tội đều cấu kết hình thành băng nhóm, đường dây, gây khó khăn, cản trở cho hoạt động điều tra. Xét thấy trong quá trình tiến hành điều tra làm rõ các vụ án trên, nếu chỉ sử dụng các biện pháp điều tra tố tụng công khai thì không đạt hiệu quả cao, thậm chí nhiều vụ án có thể rơi vào bế tắc, không chứng minh được hành vi phạm tội, đối tượng phạm tội.
Vì vậy, cần thiết phải tiến hành các biện pháp điều tra bí mật để thu thập thông tin, tài liệu về hoạt động phạm tội của các đối tượng. Việc luật hóa các biện pháp ghi âm, ghi hình bí mật; nghe điện thoại bí mật; thu thập bí mật dữ liệu điện tử trong BLTTHS năm 2015 là một bước ngoặt lớn trong quá trình đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm nêu trên. Không chỉ vậy, đây cũng là cơ sở, căn cứ pháp lý để CQĐT bổ sung vào nguồn chứng cứ chứng minh tội phạm. Quá trình tiến hành các biện pháp điều tra đặc biệt phải được đảm bảo bí mật, không để những người không liên quan biết hoặc tham gia. Vấn đề này đã được quy định tại khoản 4 Điều 225 BLTTHS năm 2015. Như vậy, số lượng người có liên quan đến việc thi hành quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt được giới hạn rất ít.
Biện pháp ĐTTTĐB cụ thể hóa yêu cầu của
Thông tin, tài liệu thu được bằng biện pháp ĐTTTĐB chỉ được sử dụng vào việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự; thông tin, tài liệu không liên quan đến vụ án phải tiêu hủy kịp thời. Nghiêm cấm sử dụng thông tin, tài liệu, chứng cứ thu thập được vào mục đích khác.
Việc sử dụng thông tin, tài liệu thu thập được bằng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt là những quy định cần thiết để đảm bảo sự chặt chẽ và nghiêm ngặt về thủ tục thi hành các biện pháp này cũng như đảm bảo tối đa quyền con người, quyền công dân và quyền của những người bị buộc tội. BLTTHS cũng quy định nghiêm cấm sử dụng thông tin, tài liệu, chứng cứ thu thập được vào mục đích khác. Điều này một lần nữa khẳng định cho nguyên tắc các tài liệu, chứng cứ thu thập được từ các biện pháp này chỉ có thể sử dụng vào việc điều tra, truy tố, xét xử. Trường hợp sử dụng các thông tin thu thập được vào các mục đích ngoài các hoạt động trên như để đe dọa, tống tiền, hạ bệ uy tín, bôi nhọ danh dự, nhân phẩm vv… hay bất cứ mục đích gì khác đều là các hành vi xâm phạm quyền tự do dân chủ của công dân thì tùy theo mức độ vi phạm người đó phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
Hơn nữa, để đảm bảo cho quá trình kiểm sát hoạt động tư pháp được khách quan, hiệu quả và chặt chẽ, Cơ quan điều tra có trách nhiệm
Trong hoạt động này, chủ thể có thẩm quyền mà trực tiếp nhất ở đây chính là Viện kiểm sát, Viện kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ để đảm bảo việc sử dụng các thông tin, tài liệu thu thập được phải đúng mục đích. Tất cả các thông tin, tài liệu thu thập được bằng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt chỉ được sử dụng vào việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự tức là dùng vào việc chứng minh tội phạm (bao gồm cả buộc tội và gỡ tội), mọi thông tin, tài liệu không liên quan đến vụ án phải tiêu hủy kịp thời.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm soát này, BLTTHS đã quy định trong quá trình áp dụng, Cơ quan điều tra có trách nhiệm phải thông báo ngay kết quả việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt cho Viện trưởng Viện kiểm sát đã phê chuẩn. Viện kiểm sát cần nghiên cứu kỹ hồ sơ, báo cáo của cơ quan điều tra, xác định các thông tin, tài liệu mà cơ quan điều tra sử dụng là loại thông tin, tài liệu nào? Có ý nghĩa trong việc chứng minh tội phạm không? Bên cạnh đó, Viện kiểm sát cũng có quyền kiểm tra toàn bộ các thông tin, tài liệu thu thập được, nếu thấy thiếu sót thì yêu cầu cơ quan điều tra bổ sung vào các chứng cứ, nếu thấy không liên quan đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì phải yêu cầu cơ quan điều tra tiêu hủy ngay.
Trong trường hợp cơ quan điều tra không chấp hành, Viện kiểm sát có quyền ra văn bản hủy bỏ việc áp dụng. Mặt khác, nếu trong quá trình áp dụng Viện kiểm sát cũng cần lưu ý cơ quan điều tra có thông báo thường xuyên kết quả việc thu thập chứng cứ cho mình không? Nếu không cần yêu cầu khắc phục ngay bằng việc thông báo thường xuyên hoặc tùy theo mức độ mà ra quyết định hủy bỏ việc áp dụng theo quy định.
Để thực hiện việc kiểm sát trong hoạt động thu thập, bảo quản các chứng cứ thu được từ việc áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, Viện kiểm sát phải kiểm sát quy trình nghiệp vụ, đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc nghiệp vụ điều tra, việc bảo quản phải đảm bảo chất lượng của chứng cứ. Với các chứng cứ đặc thù tồn tại ở dạng âm thanh, hình ảnh, và dữ liệu điện tử nên việc thu thập và bảo quản cũng tuân thủ theo các quy trình hết sức đặc biệt. Do đó, Viện kiểm sát phải theo dõi và bám sát để việc thu thập vừa đảm bảo đúng quy định của BLTTHS vừa tuân thủ nghiêm ngặt quy trình nghiệp vụ.
Trước tiên phải đảm bảo các phương tiện ghi âm, ghi hình bí mật, nghe lén điện thoại phải đảm bảo chất lượng và có độ ổn định cao. Đối với âm thanh thu được phải đủ các điều kiện về âm lượng, giảm thiểu tối đa độ nhiễu, ồn, phải có căn cứ để khi giám định xác định được vận tốc, cường độ, trường độ, nhịp cộng hưởng, âm sắc … Đối với hình ảnh phải kịp thời nhắc nhở cơ quan điều tra đảm bảo chất lượng hình ảnh, kích thước, độ rõ nét, góc quay v.v … và đặc biệt phải đảm bảo về thời lượng của đoạn ghi âm, ghi hình để thuận lợi trong việc so sánh với các mẫu so sánh khi tiến hành giám định.
Đối với việc thu thập bí mật dữ liệu điện tử cần đảm bảo kiểm sát để khẳng định dữ liệu này có thật, tồn tại khách quan, có nguồn gốc rõ ràng, không bị làm cho sai lệnh, biến dạng, đã được tìm thấy và đang lưu trên máy tính, điện thoại di động, máy tính bảng, USB, ổ cứng di động, đĩa quang, email, website, điện toán đám mây, account, nickname của đối tượng, server của nhà cung cấp dịch vụ internet … Kiểm sát chặt chẽ để máy tính, máy điện thoại, email, USB, đĩa CD/DVD, dữ liệu thu từ máy chủ, chặn thu trên đường truyền … phải được ghi vào biên bản, niêm phong theo đúng quy định, không bị tác động làm thay đổi dữ liệu kể từ khi thu giữ hợp pháp và không thể can thiệp để thay đổi. Phải đảm bảo việc phục hồi, tìm kiếm dữ liệu điện tử chỉ được thực hiện trên bản sao; kết quả phục hồi, tìm kiếm, phải chuyển sang dạng có thể đọc, nghe hoặc nhìn được.