Thực trạng báo chí, truyền thông xã hội và phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam. Tình hình báo chí và truyền thông xã hội ở Việt Nam.
Mục lục bài viết
1. Tình hình báo chí và truyền thông xã hội ở Việt Nam:
Theo thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông thì hiện nay cả nước có 868 cơ quan báo chí, tổng số lao động trong các cơ quan báo chí là 41.600 người (trong đó, có 19.166 người được cấp thẻ nhà báo), có 72 đài phát thanh, truyền hình và thông tin điện tử. Tổng số lao động trong các đài/đơn vị hoạt động truyền hình là 18.481 người (trong đó, có 7.594 người được cấp thẻ nhà báo). Hiện nay đội ngũ nhà báo của Việt Nam đã có sự trưởng thành và lớn mạnh cả về số lượng lẫn chất lượng, trình độ năng lực, chuyên môn nghiệp vụ cũng không ngừng được nâng cao, đáp ứng tốt các đòi hỏi, yêu cầu mà thực tiễn của đất nước đặt ra. Báo chí đã có nhiều đóng góp to lớn vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc; tích cực tuyên truyền đường lối các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp phần tạo sự đồng thuận trong xã hội, củng cố niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, nhất là trong giai đoạn đất nước ta phải căng mình phòng, chống đại dịch Covid-19. Trong thời gian qua, báo chí cũng rất tích cực tham gia vào công tác đấu tranh, PCTN, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các hành vi, biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên.
Theo thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông thì tính đến năm 2020 dân số của Việt Nam ước tính là 97,58 triệu người, là nước đông dân thứ 15 thế giới. Việt Nam có tỷ lệ người sử dụng Internet năm 2020 là 68,7, tỷ lệ hộ gia đình có kết nối Internet là 71,3, Việt Nam là quốc gia đứng thứ 16 trên thế giới về số lượng người sử dụng internet. Một thống kê đáng chú ý là thời gian sử dụng internet trung bình của người Việt lên tới gần 7 tiếng/ngày [45]. Điều này cho thấy người Việt Nam đã dành một khoảng thời gian đáng kể cho các hoạt động trên không gian mạng nhằm phục vụ các nhu cầu khác nhau, các mạng xã hội phổ biến nhất hiện nay là Facebook và Zalo trong đó Facebook vẫn là mạng xã hội được người Việt sử dụng nhiều nhất hiện nay. Tính đến tháng 4/2018, có 58 triệu người Việt Nam sử dụng Facebook, đưa Việt Nam vào top 7 quốc gia có số lượng người dùng Facebook lớn nhất thế giới. Zalo hiện có khoảng 40 triệu người dùng hàng tháng. Đây là một con số đáng kể khi tổng số người dùng Zalo chiếm một nửa dân số Việt Nam và gần 70% người dùng Facebook [35]. Với số lượng người tham gia mạng xã hội như thống kê, cộng đồng “cư dân mạng” Việt Nam đã hình thành nên một xã hội mạng thực sự lớn và rộng khắp. Sự trợ giúp của internet và các nền tảng công nghệ các thành viên trong mạng xã hội đó đã tạo nên một mạng thông tin khổng lồ và chia sẻ các thông tin đó với nhau.
Sự lan truyền đó đặc biệt nhanh chóng trên các phương tiện TTXH và từ cộng đồng của của cá nhân này sang cộng đồng của cá nhân khác. Ví dụ như trang báo điện tử Dân Trí có khoảng 3 triệu likes trên mạng xã hội Facebook đồng nghĩa với việc bất cứ bài báo nào của trang này được đăng lên fanpage thì đồng nghĩa với việc sẽ có khoảng 3 triệu người có khả năng tiếp cận với bài báo đó. Và theo lý thuyết thì chỉ cần một phần của ba triệu người này chia sẻ link bài báo đó với cộng đồng của họ thì số người tiếp cận bài báo đó sẽ tăng gấp đôi. Thông qua TTXH các thông tin được thu thập và phát tán một cách nhanh chóng, rộng rãi trên phạm vi toàn cầu. Các thông tin này không bị chi phối bởi những yếu tố như: không gian, biên giới, thời gian, tôn giáo, sắc tộc, nghề nghiệp… do đó TTXH đã hình thành nên một mạng lưới quan hệ rộng khắp mà hình thức giao tiếp truyền thống (mặt đối mặt) không thể thực hiện được. Cơ chế lan truyền với tốc độ nhanh, sự khó kiểm soát cùng lượng người sử dụng đã cho chúng ta hình dung được phần nào những tác động của TTXH tới mọi mặt của đời sống.
Các thông tin trên TTXH đa dạng, phong phú xong dễ bị thổi phồng, thiếu tính chính xác, thiếu sự kiểm chứng và dễ bị chi phối bởi hiệu ứng đám đông và phản ứng dây chuyền. TTXH ở nước ta cũng như trên thế giới thường mang tính ẩn danh, nặc danh nên người tham gia đôi khi có thể phát ngôn tùy tiện do đó mà TTXH dễ trở thành phương tiện để các thế lực xấu, thù địch, chống phá Đảng và Nhà nước ta sử dụng gây rối loạn thông tin, mất trật tự xã hội và an ninh quốc gia.
2. Tình hình tham nhũng và phòng chống tham nhũng ở Việt Nam:
Thực trạng tham nhũng hiện nay đang là một thách thức mà Việt Nam phải đối mặt, Đảng ta đã sớm xác định tham nhũng là một trong bốn nguy cơ đối với sự nghiệp đổi mới và đe dọa tới sự tồn vong của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa nên Đảng và Nhà nước luôn kiên quyết đấu tranh nhằm ngăn chặn và từng bước đẩy lùi tham nhũng.
Chỉ số cảm nhận tham nhũng của Việt Nam năm 2020 là 36/100 điểm, giảm 1 điểm so với năm 2019, đứng thứ 104/180 trên bảng xếp hạng toàn cầu. Điểm CPI của Việt Nam thấp hơn điểm trung bình của khu vực ASEAN (42/100) nhưng cao hơn một số quốc gia trong khu vực. Việc gia tăng nhẹ chỉ số CPI và giảm 1% từ 37 điểm vào năm 2019 xuống 36 điểm vào năm 2020 qua là chỉ báo tích cực đối với các nỗ lực trong PCTN của Việt Nam. Song, nếu xét trên thang điểm từ 0 đến 100 của Chỉ số CPI thì tình hình tham nhũng ở khu vực công của Việt Nam vẫn bị coi là rất nghiêm trọng. Trong thời gian qua tình trạng tham nhũng, tiêu cực đã xảy ra ở nhiều cấp, nhiều ngành với các quy mô và mức độ khác nhau. Trong đó có nhiều vụ việc xảy ở những ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm với mức độ sai phạm lớn, quy mô lớn và thủ đoạn tinh vi qua đó làm thất thoát, gây thiệt hại nặng nề với tài sản của nhà nước và nhân dân và gây ra bất bình trong dư luận như:
Trong lĩnh vực đầu tư, xây dựng cơ bản. Những công trình để xảy ra thất thoát tài sản liên quan đến các hành vi tham nhũng ở hầu hết các khâu, các giai đoạn từ khâu lập và phê duyệt dự án, khảo sát, thiết kế, duyệt kế hoạch vốn, đấu thầu, tư vấn giám sát, nghiệm thu, thanh quyết toán công trình… Trong lĩnh vực đầu tư và xây dựng cơ bản, nhiều công trình bị thất thoát tới tài sản có liên quan đến hành vi tham nhũng ở hầu hết các khâu, từ lập, phê duyệt dự án, khảo sát, thiết kế, phê duyệt kế hoạch vốn, đấu thầu, tư vấn giám sát, nghiệm thu, thanh toán và quyết toán công trình… Một trong những vụ việc điển hình là vụ Cơ quan điều tra Công an tỉnh Thái Bình khởi tố Giám đốc Trung tâm Dịch vụ bán đấu giá tài sản về tội lạm quyền trong việc giúp vợ chồng Nguyễn Xuân Đường (Đường Nhuệ) thay đổi kết quả đấu thầu các dự án đất nền trên địa bàn để trục lợi.
Trong lĩnh vực quản lý xã hội, quản lý hành chính công tham nhũng gắn liền với việc thực hiện các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Tham nhũng diễn ra phổ biến ở hầu hết các lĩnh vực từ y tế, văn hóa, xã hội, lao động… Đặc biệt là việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong việc thực hiện các dự án đầu tư của Nhà nước để trục lợi; hiện tượng tống tiền, đưa và nhận hối lộ; cố ý làm trái trong cấp phép, chứng nhận, hoạt động dịch vụ hành chính công; Các hoạt động thi cử, tuyển dụng đến các hoạt động thanh tra, kiểm tra… Một trong những vụ việc điển hình có thể kể đến vụ Mobifone mua 95% cổ phần của AVG hay các dự án của Tổng Công ty thép Thái Nguyên…
Trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng, tình trạng tham ô và thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trong. Một số lãnh đạo, nhân viên của ngân hàng thông đồng với các doanh nghiệp, các đối tượng vay để hợp thức hóa các hồ sơ thế chấp không hợp lệ hoặc hồ sơ giả dẫn đến thất thoát hàng nghìn tỷ đồng. Nhiều cán bộ, nhân viên ngân hàng và các đối tượng có liên quan đã bị truy tố trước pháp luật. Có thể kể đến các vụ án: Vụ án Huỳnh Thị Huyền Như, Phạm Công Danh, Trần Phương Bình, Hứa Thị Phấn cùng các đồng bọn đã cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; hay vụ án xảy ra tại Tập đoàn Dầu khí Việt Nam liên quan đến việc góp vốn 800 tỷ đồng của PVN vào Ngân hàng Oceanbank;…
Công cuộc đấu tranh PCTN, tiêu cực mà Đảng, Nhà nước ta phát động là một cuộc chiến hết sức cam go, lâu dài và phức tạp. Trong thời gian qua, nhất là trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, “công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng đã được lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, bài bản, đi vào chiều sâu, có bước tiến mạnh, đạt nhiều kết quả cụ thể rất quan trọng, toàn diện, rõ rệt, để lại dấu ấn tốt, tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội và thực sự “đã trở thành phong trào, xu thế”, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao, được quốc tế ghi nhận” [44]. Đấu tranh PCTN, tiêu cực là cuộc đấu tranh lâu dài, đầy cam go, phức tạp. Trong quá trình đổi mới, Đảng ta luôn quan tâm đẩy mạnh đấu tranh PCTN và coi đây là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Giai đoạn 2013-2020, cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 131 nghìn đảng viên. Riêng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay, hơn 87.000 cán bộ, đảng viên bị thi hành kỷ luật, trong đó có hơn 3.200 đảng viên bị xử lý kỷ luật liên quan đến tham nhũng; thi hành kỷ luật hơn 110 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, trong đó có 27 Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, 4 Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, 30 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Đây là khâu đột phá trong công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng. Qua thanh tra, kiểm toán đã thu hồi, xử lý tài chính hơn 700 nghìn tỷ đồng, hơn 20 nghìn ha đất và kiến nghị xử lý trách nhiệm hơn 14 nghìn tập thể, nhiều cá nhân; chuyển cơ quan điều tra xử lý gần 700 vụ việc có dấu hiệu tội phạm. Công tác điều tra, truy tố, xét xử đối với các vụ án tham nhũng, kinh tế được tiến hành kiên quyết, không khoan nhượng, không nương nhẹ, không làm oan, không bỏ lọt tội phạm, rất nghiêm minh, nhưng cũng rất nhân văn, có lý, có tình; hầu hết các đối tượng bị xử lý đều nhận thức rõ sai phạm của mình, tâm phục khẩu phục, ăn năn, hối lỗi, xin lỗi Đảng, Nhà nước.
Từ năm 2013 đến nay, các cơ quan tố tụng trên cả nước đã tiến hành các hoạt động về khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử với hơn 11.700 vụ án tham nhũng, chức vụ, kinh tế với 4.400 bị cáo và 1.900 vụ án. Ban chỉ đạo PCTN đã theo dõi, chỉ đạo hơn 800 vụ việc, vụ án ở 3 cấp, trong đó trực tiếp theo dõi, chỉ đạo 133 vụ việc và 94 vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, được dư luận quan tâm, đã xét xử sơ thẩm 86 vụ, 814 bị cáo, trong đó có 18 cán bộ diện Trung ương quản lý bị xử lý hình sự, trong đó có 1 thành viên Bộ Chính phủ. Ủy viên Bộ Chính trị, 7 Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, 4 Bộ trưởng, nguyên Bộ trưởng, 7 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang… Công tác thu hồi tài sản tham nhũng cũng có nhiều chuyển biến tích cực.
Nếu như năm 2013, tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng trong giai đoạn thi hành án chỉ đạt dưới 10%, thì bình quân giai đoạn từ 2013 đến 2020, tỷ lệ này đạt 32,04%.
Có thể khẳng định, công tác PCTN ở Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Tình trạng tham nhũng đã được ngăn chặn và đẩy lùi cùng với đó là niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước ngày được nâng lên. Bên cạnh kết quả đạt được, công tác PCTN ở Việt Nam vẫn còn một số hạn chế như:
Thứ nhất, thể chế, chính sách pháp luật trên một số lĩnh vực còn bất cập, tính khả thi không cao; chưa có cơ chế đủ mạnh để kiểm soát chặt chẽ quyền lực; công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi quyền lực của người có chức vụ, quyền hạn chưa được quan tâm thực hiện, nên dễ dẫn đến việc lạm quyền để trục lợi; chế độ trách nhiệm, chế độ công vụ chưa rõ ràng, cụ thể. Chẳng hạn, Luật PCTN hiện hành và Nghị định số 68/2011/NĐ-CP ngày 08/8/2011 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của
Thứ nhất, thực tế cho thấy thể chế, chính sách, pháp luật của nước ta còn nhiều bất cập, nhiều quy định có tính khả thi không cao. Các cơ chế kiểm soát quyền lực còn chưa đủ mạnh và công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi quyền lực của người có chức vụ, quyền hạn chưa được quan tâm đúng mức nên có lúc, có nơi còn để xảy ra tình trạng lạm quyền, vụ lợi. Ngoài ra, chế độ công vụ và chế độ trách nhiệm còn chưa rõ ràng. Công tác thực thi pháp luật về PCTN ở nước ta nhìn chung còn chưa nghiêm; kỷ luật, kỷ cương trong một số ngành, lĩnh vực còn lỏng lẻo. Tổ chức bộ máy, thẩm quyền và điều kiện làm việc của các cơ quan, đơn vị chuyên trách về PCTN chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao; năng lực, trình độ của một bộ phận cán bộ, công chức chưa đáp ứng yêu cầu…
Thứ hai, một bộ phận cán bộ, công chức còn xem nhẹ vai trò của TTXH, do đó việc xử lý, xử lý thông tin còn chậm, bị động, đôi khi còn mang tính thủ tục, đối phó. Mặt khác, tình trạng lợi dụng TTXH phát tán các thông tin bị thổi phồng, suy đoán, xuyên tạc nhằm trục lợi, gây mất đoàn kết nội bộ chưa được ngăn chặn, xử lý triệt để đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát huy vai trò của TTXH trong PCTN.