Nghĩa vụ dân sự là gì? Quy định về thực hiện nghĩa vụ dân sự phân chia được theo phần? Quy định về thực hiện nghĩa vụ dân sự không phân chia được theo phần?
Trong các giao dịch dân sự, việc thực hiện nghĩa vụ dân sự có những vai trò và ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn. Các chủ thể là người có nghĩa vụ dân sự cần phải thực hiện nghĩa vụ của mình một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác, đúng cam kết, không được trái pháp luật và đạo đức xã hội. Pháp luật cũng đã ban hành các quy định cụ thể về thực hiện nghĩa vụ để nhằm bảo đảm quyền cũng như lợi ích của các chủ thể tham gia giao dịch dân sự. Vậy, thực hiện nghĩa vụ là gì và có nội dung như thế nào? Bài viết dưới đây Luật Dương Gia sẽ giúp người đọc tìm hiểu quy định về thực hiện nghĩa vụ theo phần và không phân chia được theo phần trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Luật sư tư vấn luật qua điện thoại trực tuyến miễn phí: 1900.6568
1. Nghĩa vụ dân sự là gì?
Theo Điều 274 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định nội dung sau đây:
“Nghĩa vụ là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền).”
Như vậy, ta nhận thấy, theo quy định của pháp luật thì nghĩa vụ dân sự là quan hệ pháp luật dân sự bao gồm các bên chủ thể, trong đó một bên chủ thể mang quyền sẽ có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ dân sự phải thực hiện việc chuyển giao một tài sản hay phải thực hiện một công việc hoặc không được thực hiện một công việc, phải thực hiện bồi thường một thiệt hại về tài sản theo đúng hợp đồng giao dịch hay thỏa thuận đã có trước đó. Bên có nghĩa vụ dân sự trong quan hệ nghĩa vụ này cần phải thực hiện các nghĩa vụ mà bên có quyền dân sự hợp pháp yêu cầu. Như vậy, nghĩa vụ dân sự là một quan hệ pháp luật, trong đó các bên tham gia bình đẳng với nhau về mặt pháp lý, các quyền và nghĩa vụ dân sự hợp pháp của các bên, quyền và nghĩa vụ hợp pháp của người thứ ba đều được pháp luật đảm bảo thực hiện theo đúng các quy định cụ thể trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
2. Quy định về thực hiện nghĩa vụ dân sự phân chia được theo phần:
2.1. Thực hiện nghĩa vụ dân sự phân chia được theo phần là gì?
Theo Điều 290 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về thực hiện nghĩa vụ phân chia được theo phần có nội dung cụ thể như sau:
“1. Nghĩa vụ phân chia được theo phần là nghĩa vụ mà đối tượng của nghĩa vụ có thể chia thành nhiều phần để thực hiện.
2. Bên có nghĩa vụ có thể thực hiện từng phần nghĩa vụ, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Nghĩa vụ dân sự phân chia được theo phần là một trong số những loại nghĩa vụ mà đối tượng của nghĩa vụ là vật chia được hoặc công việc có thể chia thành nhiều phần để thực hiện. Nói một cách khác, nghĩa vụ phân chia được theo phần là nghĩa vụ chuyển giao vật mà vật được chuyển giao là vật chia được hoặc là nghĩa vụ thực hiện một công việc mà theo tính chất, công việc đó có thể thực hiện theo từng phần khác nhau.
Qua quy định cụ thể bên trên có thể thấy pháp luật dân sự ghi nhận cho các bên nguyên tắc thỏa thuận thực hiện nghĩa vụ, thực hiện nghĩa vụ theo phương thức một lần hay nhiều lần. Tuy nhiên, trên thực tế và dựa theo quy định pháp luật thì không phải mọi quan hệ nghĩa vụ đều có thể phân chia thành nhiều giai đoạn để thực hiện mà muốn thực hiện nghĩa vụ dân sự theo phương thức chia nhỏ thành nhiều giai đoạn thì pháp luật quy định, đối tượng của quan hệ nghĩa vụ đó phải thỏa mãn các điều kiện cụ thể.
2.2. Đặc điểm của thực hiện nghĩa vụ dân sự phân chia được theo phần:
Thực hiện nghĩa vụ dân sự phân chia được theo phần có những đặc điểm sau:
– Đặc điểm thứ nhất: Đối tượng của nghĩa vụ là vật chia được hoặc công việc có thể thực hiện theo từng phần khác nhau.
Việc phân chia quan hệ nghĩa vụ được thực hiện nhiều lần sẽ phụ thuộc vào đặc điểm, tính chất của đối tượng trong quan hệ đó. Cụ thể, là đối tượng của quan hệ đó phải là đối tượng có thể chia được. Đối tượng của quan hệ nghĩa vụ bao gồm:
+ Thứ nhất: Đối tượng của quan hệ nghĩa vụ là vật:
Nếu là vật, thì vật đó phải tồn tại dưới hình thức chia được. Hay ta có thể hiểu vật đó bị chia làm nhiều phần thì tính năng, công dụng, giá trị vẫn còn nguyên vẹn.
+ Thứ hai: Đối tượng của quan hệ nghĩa vụ là công việc:
Trong trường hợp đối tượng của quan hệ nghĩa vụ là công việc, thì công việc này cũng phải tồn tại ở tình trạng có thể thực hiện thành nhiều lần khác nhau, mà không làm ảnh hưởng tới chất lượng công việc đó. Khi đó, bên có nghĩa vụ có thể chia công việc thành nhiều lần khác nhau để thực hiện.
Việc ban hành uy định này rất phù hợp với tính chất của công việc, có những công việc nhất định phải thực hiện làm nhiều lần thì bên có nghĩa vụ mới có thể hoàn thành nghĩa vụ của mình và nó đã đem lại lợi ích cho bên có quyền.
Nếu đối tượng của quan hệ nghĩa vụ được xác định là vật, công việc có thể chia được thì bên có nghĩa vụ có thể thực hiện nghĩa vụ theo từng phần, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Đây là một nguyên tắc của pháp luật giúp xác định cách thức thực hiện nghĩa vụ của bên mang nghĩa vụ trước bên có quyền. Việc chia nhỏ đối tượng thực hiện nghĩa vụ là quyền của bên mang nghĩa vụ, miễn rằng bên mang nghĩa vụ đảm bảo mang lại quyền, lợi ích cho bên có quyền. Chính bởi vì thế, họ có thể thực hiện nghĩa vụ chia theo phần nếu các chủ thể muốn. Pháp luật dân sự luôn tôn trọng ý chí của các bên trong các quan hệ dân sự do vậy nếu các bên có thỏa thuận khác về việc thực hiện nghĩa vụ thì pháp luật cũng tôn trọng và bảo vệ.
– Đặc điểm thứ hai: Được phép thực hiện theo các thời điểm khác nhau:
+ Nếu đối tượng của nghĩa vụ là vật thì vật đó là vật chia được nên bên có nghĩa vụ có thể giao vật đó cho bên có quyền thành nhiều lần khác nhau nhưng phải giao đủ trong thời hạn thực hiện nghĩa vụ.
+ Nếu đối tượng là công việc thì công việc đó là loại công việc có thể tách ra nhằm để thực hiện theo từng phần khác nhau nên bên có nghĩa vụ có thể chia công việc đó để thực hiện theo đúng quy định.
3. Quy định về thực hiện nghĩa vụ dân sự không phân chia được theo phần:
3.1. Thực hiện nghĩa vụ dân sự không phân chia được theo phần là gì?
Theo Điều 291 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về nghĩa vụ dân sự không phân chia được theo phần có nội dung như sau:
“Điều 291. Thực hiện nghĩa vụ không phân chia được theo phần
1. Nghĩa vụ không phân chia được theo phần là nghĩa vụ mà đối tượng của nghĩa vụ phải được thực hiện cùng một lúc.
2. Trường hợp nhiều người cùng phải thực hiện một nghĩa vụ không phân chia được theo phần thì họ phải thực hiện nghĩa vụ cùng một lúc”
Các đối tượng của nghĩa vụ dân sự hết sức đa dạng, mỗi loại đối tượng cụ thể có những đặc điểm và tính chất khác nhau. Chính bởi vì thế mà tùy thuộc vào đối tượng mà nghĩa vụ dân sự đó có thể là nghĩa vụ phân chia được theo phần hoặc là nghĩa vụ không phân chia được theo phần.
Trong trường hợp khi đối tượng của nghĩa vụ là một vật được xác định và vật đó là một vật chia được hoặc đối tượng là một công việc mà theo tính chất công việc đó phải được thực hiện cùng một lúc thì được gọi là nghĩa vụ không phân chia được theo phần.
Hiểu một cách đơn giản thì nghĩa vụ dân sự không phân chia theo phần là nghĩa vụ dân sự mà đối tượng của nghĩa vụ này là vật không thể chia được hoặc là công việc phải thực hiện cùng một lúc.
Hiện nay, các quy định về thực hiện nghĩa vụ không phân chia được mang tính công bằng đối với các bên có nghĩa vụ trong trường hợp quan hệ nghĩa vụ do nhiều người cùng thực hiện. Tính công bằng được thể hiện ở chỗ những người mang nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ cùng một lúc khi đối tượng của quan hệ là vật không chia được hoặc công việc phải thực hiện một lần.
Thực tế thì bản chất của đối tượng là vật không phân chia được hoặc công việc phải thực hiện một lần là không thể chia làm nhiều giai đoạn thực hiện, nó chỉ mang lại quyền lợi cho bên có quyền khi được thực hiện một lần. Chính bởi vậy mà các bên có nghĩa vụ phải cùng lúc thực hiện nghĩa vụ đó mới có thể thỏa mãn quyền lợi của bên có quyền.
3.2. Đặc điểm của thực hiện nghĩa vụ dân sự không phân chia được theo phần:
Theo quy định trên, có thể thấy nghĩa vụ dân sự được xem là không thể phân chia được khi đối tượng của quan hệ đó có đặc điểm sau:
– Đặc điểm thứ nhất: Đối tượng của nghĩa vụ là vật không chia được hoặc một công việc không thể tách ra khi thực hiện.
+ Đối tượng của nghĩa vụ là vật:
Nếu là vật thì phải tồn tại dưới dạng không thể phân chia được. Vật đó không thể phân chia được và nếu bị phân chia thì vật đó không thể giữ nguyên được tính chất và tính năng ban đầu, giá trị của nó sẽ giảm sút hoặc không còn. Chính bởi do vậy nhằm để bảo vệ giá trị của vật cũng như đảm bảo quyền lợi của bên có quyền, người có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ cùng một lúc mà không thể chia ra thực hiện nhiều lần.
+ Đối tượng của nghĩa vụ là công việc:
Công việc là đối tượng của quan hệ nghĩa vụ khi các bên xác lập quan hệ với nhau, thông qua việc thực hiện một công việc với nội dung xác định, mà việc bên có nghĩa vụ thực hiện công việc đó nhằm thỏa mãn lợi ích của bên có quyền. Công việc đó cầm phải được thực hiện trong một lần duy nhất thì mới đáp ứng được nhu cầu lợi ích của bên có quyền theo đúng quy định của phấp luật.
– Đặc điểm thứ hai: Thực hiện vào cùng một thời điểm:
Thông thường thì thời hạn thực hiện nghĩa vụ là một khoảng thời gian nhất định do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định mà trong khoảng thời gian đó bên có nghĩa vụ phải hoàn thành nghĩa vụ của mình. Thời hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự trong quan hệ nghĩa vụ có thể phân chia được theo phần cũng có thể là một khoảng thời gian nhưng do tính chất của đối tượng nên người có nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ này vẫn phải thực hiện nghĩa vụ vào một thời điểm mà không được kéo dài trong suốt thời hạn đó nếu nghĩa vụ đó là nghĩa vụ giao vật.
Nếu đối tượng của nghĩa vụ là một công việc thì cần phải thực hiện thì người có nghĩa vụ phải thực hiện công việc đó một cách liên tục cho đến khi hoàn thành công việc theo thỏa thuận giữa các bên.