Thực hiện hợp đồng vay không kỳ hạn theo quy định Bộ luật dân sự 2015. Hợp đồng vay tiền có phải lập thành văn bản có công chứng, chứng thực?
Thực hiện hợp đồng vay không kỳ hạn theo quy định Bộ luật dân sự 2015. Hợp đồng vay tiền có phải lập thành văn bản có công chứng, chứng thực?
Tóm tắt câu hỏi:
Chị H và chị K là bạn thân của nhau làm cùng cơ quan nên khi chị K làm nhà, chị H đã cho chị K vay 100 triệu đồng để xây nhà và thỏa thuận khi nào có điều kiện chị K sẽ trả nợ và không tính lãi. Đến nay, chị K đã làm nhà xong được 1 năm. Con chị H chuẩn bị lấy vợ, chị H cần dùng số tiền nói trên để trang trải chi phí đám cưới vào cuối năm 2018 nên chị H đã gặp chị K đề nghị thu xếp trả số tiền chị H đã cho vay trước khi tổ chức đám cưới. Vậy, việc làm của chị H có phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 không? Vì sao?
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Cơ sở pháp lý:
– Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
– Luật thi hành án dân sự 2008
2. Giải quyết vấn đề:
Theo thông tin bạn cung cấp, giữa chị H và chị K không có hợp đồng vay tiền bằng văn bản, không xác định thời hạn cho vay và không có lãi vay. Đây là hình thức cho vay không thời hạn và không có lãi.
Theo quy định Điều 463 Bộ luật dân sự 2015, hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.
Theo đó, hợp đồng vay tiền không quy định bắt buộc phải lập thành văn bản, có công chứng hoặc chứng thực. Tuy nhiên để dễ dàng giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản, giữa bên cho vay và bên cho vay nên lập thành văn bản để có căn cứ chứng minh quan hệ
Điều 469 Bộ luật dân sự 2015 quy định về việc thực hiện hợp đồng vay không kỳ hạn như sau:
– Đối với hợp đồng vay không kỳ hạn và không có lãi thì bên cho vay có quyền đòi lại tài sản và bên vay cũng có quyền trả nợ vào bất cứ lúc nào, nhưng phải báo cho nhau biết trước một thời gian hợp lý, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
– Đối với hợp đồng vay không kỳ hạn và có lãi thì bên cho vay có quyền đòi lại tài sản bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước cho bên vay một thời gian hợp lý và được trả lãi đến thời điểm nhận lại tài sản, còn bên vay cũng có quyền trả lại tài sản bất cứ lúc nào và chỉ phải trả lãi cho đến thời điểm trả nợ, nhưng cũng phải báo trước cho bên cho vay một thời gian hợp lý.
Khi cho vay tiền không thỏa thuận về lãi suất cũng như thời gian trả nợ, bên vay có thể trả nợ bất cứ lúc nào và bên cho vay cũng có thể đòi nợ bất cứ lúc nào nhưng phải báo trước cho nhau một khoảng thời gian hợp lý. Việc chị H gặp chị K đề nghị thu xếp trả số tiền chị H cho vay trước khi tổ chức đám cưới là phù hợp quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015.
>>> Luật sư tư vấn về hợp đồng vay tiền không kỳ hạn: 1900.6568
Nghĩa vụ trả nợ của bên vay theo quy định tại Điều 466 Bộ luật dân sự 2015 như sau:
"Điều 466. Nghĩa vụ trả nợ của bên vay
1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý.
3. Địa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay, trừ trường hợp có thỏa thuận khác
4. Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác
…".
Như vậy, chị K có nghĩa vụ trả nợ cho chị H đúng thời hạn, nếu quá hạn người cho vay tiền có quyền làm đơn khởi kiện gửi đến Tòa án nhân dân huyện nơi mà chị K sinh sống yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình.
Tuy nhiên, chị H cho vay tiền thông qua lời nói do đó nay chị H phải có nội dung tin nhắn hoặc nội dung băng ghi âm xác nhận vấn đề vay mượn tiền giữa H và K. Khi đó mới có căn cứ để khởi kiện tới Toà án yêu cầu giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tiền.