Thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần đầu tiên diễn ra trong thời kỳ thuộc địa và mang tên "Cuộc xâm lược Gia Định". Đây là một phần của việc mở rộng thuộc địa của Pháp tại Đông Nam Á và đã xảy ra vào thế kỷ 19.
Mục lục bài viết
1. Tình hình Việt Nam trước khi Pháp đánh Bắc Kì lần thứ nhất:
1.1. Tình hình chính trị:
Từ khi năm 1867, sau khi sáu tỉnh Nam Kì rơi vào tay của đế quốc Pháp, tư tưởng đầu hàng đã ám ảnh và thống trị tâm tư của các quan chức cao cấp trong triều đình Huế. Nhà Nguyễn vẫn duy trì chính sách “bế quan toả cảng”, mặc dù đã khởi đầu việc cử người sang phương Tây để học kỹ thuật hoặc đến miền Nam để học tiếng Pháp.
Đối với sáu tỉnh Nam Kì, có vẻ như triều đình Huế đã tự đặt ra một cách thức tác động, thừa nhận rằng đó thực sự là vùng đất thuộc về Pháp, và họ không có ý định giành lại nó.
1.2. Tình hình kinh tế, xã hội:
Nền kinh tế của quốc gia đang dần dần suy yếu do triều đình lấy cắp tiền bạc để trả chi phí cho cuộc chiến với Pháp.
Cuộc sống ngày một trở nên khó khăn hơn, những xung đột xã hội ngày càng trầm trọng, và sự không bằng lòng của nhân dân đang ngày càng gia tăng trong việc đối diện với chính quyền triều đình. Dọc theo biên giới của hai nước Việt – Lào, cả người Mường ở miền Bắc và người Thượng ở Nam Trung Kì đã nổi dậy chống lại tình thế hiện tại.
Bằng cách tận dụng cơ hội này, các bè phái chống phá và cướp biển (mà xuất phát từ Trung Quốc) cũng đã xuất hiện và gây ra những vụ cướp phá tại nhiều vùng. Để đối phó với tình hình này, nhà Nguyễn đã đàn áp và tàn sát hàng loạt các cuộc nổi dậy nông dân, đồng thời yêu cầu sự trợ giúp từ nhà Thanh để gửi quân đánh bại những tên cướp biển này. Trong khi đó, tại Nam Kì, thực dân Pháp đang vận động mạnh mẽ để chuẩn bị cho việc thôn tính cả nước.
Trong bối cảnh khốn khó của đất nước, một số quan chức và học giả có trình độ học vấn cao, đã có cơ hội đi nước ngoài và nhìn nhận vấn đề rộng hơn. Các cá nhân như Nguyễn Hiệp, Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ, Đinh Văn Điền và đặc biệt là Nguyễn Trường Tộ, đã can đảm đưa ra những tài liệu trình bày ý kiến và đề xuất cải cách mang tính nhân văn tới triều đình. Tuy nhiên, hầu hết những đề xuất cải cách này đều không được thực thi.
2. Thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần thứ nhất (1873):
Sau khi chiếm được các tỉnh Nam Kì, thực dân Pháp từng bước thiết lập bộ máy cai trị, biến nơi đây trở thành bàn đạp để mở cuộc xâm lược khắp cả nước. Chúng phái điệp viên ra Bắc, thăm dò tình hình hoạt động của triều đình, bắt liên lạc với Giăng Ðuy-puy, một lái buôn đang hoạt động ở vùng biển Trung Quốc – Việt Nam.
Ngoài ra, Pháp cũng lôi kéo một số tín đồ Công giáo quá khích, xúi giục họ đứng lên chống đối triều đình, thành lập đội quân chuẩn bị cho cuộc xâm lăng sắp đến.
Tháng 11 – 1872, ỷ thế nhà Thanh, Đuy-puy tự tiện đưa tàu theo sông Hồng sang Vân Nam buôn bán, khi không được phép của triều đình Huế. Hắn cũng ngang ngược đòi được đóng quân trên bờ sông Hồng, có căn cứ ở Hà Nội, được cung cấp lương thực để đưa qua Vân Nam.
Lính Pháp và thổ phỉ dưới trướng Ðuy-puy đã cướp thuyền thóc của triều đình, bắt quan lại, lính và nhân dân An Nam đưa xuống tàu; từ chối lời mời tới đàm phán của Tổng đốc Hà Nội Nguyễn Tri Phương. ..
Chớp cơ hội triều Nguyễn nhờ xử lý “vụ Ðuy-puy” đang làm loạn ở Hà Nội, thực dân Pháp ở Sài Gòn phái Đại uý Gác-ni-ê đưa quân ra Bắc.
Ngoài số thuộc hạ của Đuy-puy, số binh lính theo Gác-ni-ê ra Bắc Kỳ bao gồm:
– Đoàn tàu rời cảng Sài Gòn ngày 11 tháng 10 năm 1873 gồm: Pháo hạm l ‘ Arc, lực lượng hộ tống thứ nhất đi vào Hà Nội với F.Garnier gồm có 78 người, trong đó có 30 lính hải quân đánh bộ biệt phái, đoàn tham mưu gồm có phó hạm trưởng Esmez, y sĩ hải quân Chédan, chỉ huy bộ binh biệt phái thiếu uý de Trentinian, phụ tá văn thư hạ sĩ Lassere. Tàu Fleurus chở 51 người, trong số này có khoảng 10 người bản xứ Nam Kỳ. Tất cả thành phần nhân sự và vũ khí ở trên được tuần thám hạm D ‘ Estrées chuyên chở.
– Lực lượng hộ tống thứ nhì gồm có 61 xạ thủ và pháo thủ được chở trên tàu Decrès dưới sự chỉ huy của phó hạm trưởng Bain de Coquerie, cùng với hai phụ tá là chuẩn uý Hautefeuille và Perrin, y sĩ tàu là Dubut. Thuỷ thủ đoàn tàu hạm L ‘ Espingole bao gồm 7 người An Nam do phó hạm trưởng Adrien-Paul Balny d ‘ Avricourt chỉ huy, một kỹ sư máy hơi nước là Bouillet và y sĩ Hardmand. Tổng cộng toàn bộ binh lính và thuỷ thủ, đợt một quân Pháp có 83 lính, đợt hai có 88 lính ra Hà Nội.
Ngày 5 – 11 – 1873, đội tàu chiến của Gác-ni-ê đến Hà Nội. Sau khi hợp quân với Đuy-puy, quân Pháp lại giở trò khiêu khích.
Ngày 16 – 11 – 1873, sau khi có thêm tiếp viện, Gác-ni-ê lại tuyên bố mở cửa sông Hồng, ban hành biểu thuế quan mới. Sáng 19 – 11, hắn gửi tối hậu thư tới Nguyễn Tri Phương đòi giải tán quân đội, giao nộp vũ khí. ..
Không đợi hồi âm, mờ sáng 20 – 11 – 1873, quân Pháp đánh chiếm thành Hà Nội.
Ngay sau khi thành Hà Nội thất thủ, triều đình Huế phái Trần Đình Túc, Trương Gia Hội và hai giáo sĩ Gia Tô là Sohier và Danzelger ra Hà Nội để thương lượng với Garnier nhưng Gác-ni-ê đã cho quân Pháp đánh chiếm tiếp nhiều thành nữa ở Bắc Kỳ. Hà Nội, Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định nối nhau thất thủ. Tự Đức lại khiến Tam Tuyên tổng thống Hoàng Tá Viêm kiêm tiết chế Bắc Kỳ quân vụ và tham tán Tôn Thất Thuyết mang theo 1.000 quân đến đóng ở phủ Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh lo việc phòng thủ. Tuy nhiên, quân tăng phái triều đình ra đến Thanh Hoá thì phải dừng lại do thành Ninh Bình đã bị quân Pháp đánh chiếm.
Trong khi Gác-ni-ê đánh chiếm thành Nam Định thì ở Sơn Tây Quân Cờ Đen do Lưu Vĩnh Phúc chỉ huy hoạt động rầm rộ và đánh chiếm được đồn phòng ngự của quân Pháp ở Phủ Hoài và nhiều tiền đồn ở sát Hà Nội chừng chục cây số. Gác-ni-ê phải điều tàu Scorpion chở 15 lính tiếp viện cho Bain de la Coquerie và ngay sau đó tàu buộc phải ra cửa Cấm đợi tàu Decrès chở quân tiếp viện từ Sài Gòn chuyển ra.
Ngày 18 tháng 12 năm 1873, sau khi cử y sĩ Harmand đảm nhiệm chức vụ chỉ huy quân sự cùng với 25 lính thuỷ trấn giữ thành Nam Định, Gác-ni-ê quay trở về Hà Nội nhằm chuẩn bị một cuộc hành quân phản kích ở Phủ Hoài vào ngày 21 tháng 12 năm 1873. Tuy nhiên, vào buổi chiều ngày 19 tháng 12 năm 1873, Gác-ni-ê phải tiếp đón đoàn đại biểu của triều đình Huế do Trần Đình Túc, Trương Gia Hội dẫn đầu cùng với 2 giáo sĩ Gia Tô. Gác-ni-ê lại niêm yết thông báo tạm thời dừng chiến đề nghị tìm kiếm giải pháp hoà bình.
Tới ngày 21 tháng 12, Gác-ni-ê đang ngồi nghị bàn với phái đoàn của triều đình Huế thì được khẩn báo là quân của triều đình phối hợp với quân Cờ đen ở Sơn Tây cũng đang kéo đến tấn công thành Hà Nội. Gác-ni-ê dẫn một toán quân ra chặn đánh, rồi bị bắn chết tại Cầu Giấy.
Những ngày sau đó. chúng đưa quân đánh chiếm các tỉnh ở đồng bằng Bắc Kì: Hưng Yên (23 – 11), Phủ Lí (26 – 11), Hải Dương (3 – 12), Ninh Bình (5 – 12) và Nam Định (12 – 12).
3. Phong trào kháng chiến ở Bắc Kì trong những năm 1873 – 1874:
Hành động tàn ác của quân Pháp khiến cho nhân dân ta vô cùng phẫn nộ. Ngay khi Gác-ni-ê vừa đến Hà Nội, quân dân ta đã bất hợp tác với Pháp. Các giếng nước ăn bị đổ thuốc độc. Kho thuốc súng ở bờ sông của Pháp nhiều lần bị đốt cháy.
Khi địch tiến đánh thành Hà Nội, khoảng 100 binh sĩ triều đình dưới quyền chỉ huy của một viên Chưởng cơ đã chiến đấu và hy sinh tới phút cuối tại cửa Ô Thanh Hà (sau được đổi tên thành Ô Quan Chưởng).
Trong thành, Tổng đốc Nguyễn Tri Phương đã đốc thúc quân sĩ chiến đấu anh dũng. Khi bị đánh, bị giặc tra tấn, ông đã khước từ sự chữa trị của Pháp, nhịn ăn uống cho đến chết. Con trai ông là Nguyễn Lâm cũng hi sinh trong chiến đấu.
Thành Hà Nội bị giặc chiếm đóng, quân triều đình tan rã nhanh, nhưng nhân dân Hà Nội vẫn kiên quyết chiến đấu. Các sĩ phu, trí thức yêu nước đã lập Nghĩa hội, âm thầm đấu tranh kháng Pháp. Tại các tỉnh Hưng Yên, Phủ Lí, Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định. .., quân Pháp cũng vấp phải sự chống cự mãnh liệt của quân dân ta.
Trận đánh tạo nên tiếng vang mạnh nhất lúc bấy giờ là trận tập kích của quân Pháp tại Cầu Giấy ngày 21 – 12 – 1873.
Thừa lúc Gác-ni-ê đưa quân xuống đánh Nam Định, việc canh gác Hà Nội lỏng lẻo, quân ta do Hoàng Tá Viêm chỉ huy (có sự kết hợp với đội quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc) từ Sơn Tây kéo xuống Hà Nội, lập phòng tuyến vây quân địch.
Nghe tin ấy, Gác-ni-ê đã cấp tốc đem quân từ Nam Định trở về. Ngày 21 – 12 – 1873, Lưu Vĩnh Phúc kéo quân đến sát thành Hà Nội khiêu chiến. Gác-ni-ê đem quân đuổi theo.
Rơi vào ổ mai phục của quân Pháp tại khu vực Cầu Giấy, toán quân Pháp, trong đó có tướng Gác-ni-ê, đã bị đánh bại. Chiến thắng Cầu Giấy lần thứ nhất khiến cho nhân dân ta vui mừng hạnh phúc; trái lại, khiến cho thực dân Pháp băn khoăn, lo lắng và tìm cách đối phó.
Triều đình Huế đã kí kết Hiệp ước năm 1874 (Hiệp ước Giáp Tuất), theo đó quân Pháp rút lui khỏi Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc Kì, nhưng vẫn có điều kiện để thiết lập căn cứ nhằm tiến hành những bước xâm chiếm về sau.
Hiệp ước 1874 gồm 22 điều khoản. Với Hiệp ước này, triều đình nhà Nguyễn chính thức thừa nhận sáu tỉnh Nam Kì là lãnh thổ của Pháp, thừa nhận việc đi lại, mua bán, quản lý và nghiên cứu tình hình ở Việt Nam của Pháp. ..
Hiệp ước 1874 gây bất bình sâu sắc trong nhân dân và trí thức cả nước. Phong trào biểu tình chống Hiệp ước dâng cao trong cả nước, đáng chú ý nhất là cuộc biểu tình ở Nghệ An, Hà Tĩnh do Trần Tấn, Đặng Như Mai, Nguyễn Huy Điển cầm đầu.