Thứ tự phân chia di sản thừa kế? Thứ tự thanh toán khi chia thừa kế? Di sản thừa kế sẽ được chia thế nào khi có di chúc và khi không có di chúc?
Chủ sở hữu tài sản có quyền thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình về việc chuyển giao tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Đồng thời cá nhân cũng có quyền nhận di sản thừa kế từ người khác theo chỉ định trong di chúc hoặc nhận theo pháp luật. Tuy nhiên, trên thực tế, bên cạnh việc để lại di sản thừa kế thì người chết trong nhiều trường hợp cũng còn nhiều nghĩa vụ về tài sản chưa thực hiện được. Vậy, pháp luật quy định như thế nào về thứ tự phân chia di sản cho người thừa kế, thứ tự thanh toán các nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại?
Mục lục bài viết
1. Quy định của pháp luật về thừa kế:
Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.
Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp
Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản; nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ di sản hoặc nơi có phần lớn di sản.
Theo quy định tại Điều 613 Bộ luật dân sự năm 2015, người thừa kế phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
– Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết.
– Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Lưu ý:
Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.
Thời hiệu thừa kế được quy định tại Điều 623
– Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu ngay tình. Nếu không có người chiếm hữu ngay tình thì di sản thuộc về Nhà nước.
– Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
– Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
2. Thứ tự phân chia di sản thừa kế khi có di chúc:
Theo quy định của pháp luật, di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Người lập di chúc có các quyền quy định tại Điều 626 Bộ luật dân sự năm 2015 như sau:
– Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế.
– Phân định phần di sản cho từng người thừa kế.
– Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng.
– Giao nghĩa vụ cho người thừa kế.
– Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.
Do vậy, việc phân chia di sản sẽ được ưu tiên thực hiện theo di chúc nếu đảm bảo các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, có di chúc hợp pháp theo quy định tại Điều 630 Bộ luật dân sự năm 2015 như sau:
– Về người lập di chúc phải minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép. Trường hợp người lập di chúc là người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý. Nếu người lập di chúc là người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
– Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.
– Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.
Thứ hai, người thừa kế được chỉ định trong di chúc phải đủ điều kiện theo quy định của pháp luật để nhận di sản thừa kế, cụ thể:
– Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
– Người thừa kế không nằm trong trường hợp không được quyền hưởng di sản theo quy định tại Điều 621 Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc:
+ Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
+ Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
+ Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
+ Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
Thứ ba, người thừa kế được chỉ định trong di chúc có đủ điều kiện để nhận di sản nhưng lại từ chối nhận di sản, không nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác theo quy định tại Điều 620 Bộ luật dân sự năm 2015:
– Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết.
– Việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản.
Tuy nhiên, khi phân chia di sản theo di chúc, cần lưu ý những đối tượng được hưởng di sản thừa kế mà không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo quy định tại Điều 644 Bộ luật dân sự năm 2015 sẽ được ưu tiên phân chia trước, cụ thể:
– Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc bao gồm: con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng và con thành niên mà không có khả năng lao động
– Phần di sản được chia sẽ bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật.
3. Thứ tự phân chia di sản thừa kế theo pháp luật:
Theo quy định tại Điều 650 Bộ luật dân sự năm 2015, di sản thừa kế sẽ được chia theo pháp luật trong các trường hợp sau:
Thứ nhất, không có di chúc hoặc di chúc không hợp pháp;
Thứ hai, những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;
Thứ ba, những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Lưu ý:
Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:
– Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
– Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật;
– Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Trong trường hợp này, việc phân chia di sản được thực hiện theo nguyên tắc:
– Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
– Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Hàng thừa kế được xác định làm cơ sở chia di sản thừa kế được quy định cụ thể tại Khoản 1 Điều 651 Bộ luật dân sự năm 2015 như sau:
– Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
– Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
– Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
4. Quy định của pháp luật về thứ tự thanh toán khi chia di sản:
Theo quy định tại Điều 615 Bộ luật dân sự năm 2015, những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Cụ thể như sau:
– Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại.
– Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
– Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.
Việc thực hiện các nghĩa vụ tài sản được thực hiện trước khi phân chia di sản thừa kế theo thứ tự ưu tiên thanh toán quy định tại Điều 658 Bộ luật dân sự năm 2015, cụ thể như sau:
– Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng;
– Tiền cấp dưỡng còn thiếu;
– Chi phí cho việc bảo quản di sản;
– Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ;
– Tiền công lao động;
– Tiền bồi thường thiệt hại;
– Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước;
– Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân;
– Tiền phạt;
– Các chi phí khác.