Chứng cứ đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc giải quyết vụ án hình sự, để có được chứng cứ thì không thể không có hoạt động thu thập chứng cứ. Chỉ khi có hoạt động thu thập chứng cứ thì mới xác định được chứng cứ, từ đó mới có thể giải quyết vụ án hình sự.
Mục lục bài viết
- 1 1. Thu thập chứng cứ là vật chứng
- 2 2. Thu thập chứng cứ là lời khai, lời trình bày:
- 3 3. Thu thập chứng cứ là dữ liệu điện tử:
- 4 4. Thu thập chứng cứ là Kết luận giám định, định giá tài sản:
- 5 5. Thu thập chứng cứ là biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án:
- 6 6. Thu thập chứng cứ là kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác:
- 7 7. Thu thập chứng cứ là các tài liệu, đồ vật khác:
1. Thu thập chứng cứ là vật chứng
Đặc điểm của vật chứng đó là “vật”, tức là phải có hình khối, có kích thước (dài, rộng, cao) và có trọng lượng mà con người có thể nhận biết được thông qua các giác quan như mắt nhìn, tay sờ, cầm, nắm, thông qua các giác quan đó chúng ta cảm giác được nặng, nhẹ, to, nhỏ, dài, ngắn. “Vật” này có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội cũng như các tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
Trên cơ sở đó, BLTTHS 2015 định nghĩa vật chứng như sau:
Vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội, vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm, tiền hoặc vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội hoặc có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án .
Căn cứ vào đặc điểm riêng biệt của từng loại vật chứng và định nghĩa của BLTTHS năm 2015 vật chứng được phân loại gồm:
– Vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội, có thể hiểu đây là vật mà người phạm tội sử dụng để tác động lên đối tượng khác một cách cố ý gây thiệt hại cho khách thể; phương tiện phạm tội chính là dạng cụ thể của công cụ phạm tội. Trong thực tiễn, thông qua mối liên hệ giữa người phạm tội với đối tượng bị tác động bởi hành vi phạm tội và phương pháp thực hiện hành vi phạm tội chúng ta có thể nhận biết được một vật có phải công cụ, phương tiện phạm tội hay không.
– Vật mang dấu vết tội phạm: Dấu vết tội phạm là những phản ánh vật chất được lưu giữ trên các đồ vật hữu hình do tội phạm gây ra. Vật mang dấu vết tội phạm là vật mà trên nó lưu lại được các dấu vết tội phạm mà chúng ta có thể quan sát, đánh giá, phân tích, kiểm tra được. Ví dụ như con dao dính máu, chiếc cốc có dấu vân tay của người bị nghi thực hiện tội phạm .... Dấu vết tội phạm có thể tồn tại ở nhiều dạng khác nhau như: rắn, lỏng, khí, mùi vị, âm thanh, ….
– Vật là đối tượng của tội phạm: Đây là đồ vật, tài sản bị hành vi phạm tội tác động tới gây nên sự biến đổi tương đối về vị trí, hình dáng, kích thước, tính chất ... Ví dụ như chiếc túi xách trong vụ cướp tài sản là đối tượng của hành vi cướp tài sản; Vật là đối tượng của tội phạm cũng có thể là vật mang dấu vết của tội phạm, tùy thuộc vào từng vụ án cụ thể và vai trò chứng minh của vật chứng đó để chúng ta xác định cho chính xác loại vật chứng. Ví dụ: Dấu vân tay trên chiếc ví bị cướp ... .
– Tiền bạc có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội: Tiền bạc là một loại tài sản, là phương tiện thanh toán, tiền bạc có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ;
– Vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội. Trên thực tế giải quyết các vụ án hình sự, có rất nhiều loại vật khác cũng liên quan đến vụ án và có giá trị chứng minh cho tội phạm, người phạm tội và các tình tiết khác của vụ án, nhà làm luật không thể mô tả hết các trường hợp thực tế và trong điều luật và chỉ nêu lên một cách mang tính khái quát là “vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội”. Có thể hiểu đó là vật nằm ngoài những vật đã phân tích trên nhưng qua nó chúng ta có thể rút ra được những thông tin chứng minh khác của vụ án. Trong thực tiễn thì loại vật chứng này rất phong phú và đa dạng do vậy tùy thuộc vào từng loại án, mối liên hệ giữa vật chứng và đối tượng chứng minh mà cơ quan tiến hành tố tụng thu thập, kiểm tra, đánh giá, sử dụng cho phù hợp.
Khi thu thập chứng cứ là vật chứng, chủ thể thu thập phải đảm bảo những nguyên tắc chung sau:
Thứ nhất, vật chứng phải được thu thập kịp thời, đầy đủ. Thu thập kịp thời được hiểu là hoạt động thu thập phải được tiến hành đúng lúc, nhanh chóng, không để chậm trễ nhằm đảm bảo tính nguyên vẹn của vật chứng và đảm bảo cho vật chứng được thu thập giữ nguyên giá trị chứng minh cũng như giá trị sử dụng.
Thứ hai, quá trình thu thập vật chứng phải lập biên bản mô tả đúng thực trạng của chúng và đưa vào hồ sơ vụ án. Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình thu thập, mọi vật chứng đều phải được mô tả đúng thực trạng, đúng đặc điểm của nó về tên, mác, mã số, ký hiệu, số lượng, trọng lượng, chất lượng, màu sắc, hình dáng, ... vào biên bản và đưa vào hồ sơ vụ án
Thứ ba, việc thu thập vật chứng phải đảm bảo đúng thời hạn. Có nghĩa, tất cả các hoạt động phải được tiến hành trong những thời hạn do luật định.
Theo quy định của BLTTHS, vật chứng được thu thập qua các hoạt động gồm: Thu thập vật chứng khi khám nghiệm hiện trường (Điều 201); Thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại cơ quan, tổ chức bưu chính, viễn thông (Điều 197); Tạm giữ đồ vật, tài liệu khi khám xét (Điều 198); Thu giữ phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử (Điều 196); Vật chứng do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp, đưa ra (khoản 1, 3 Điều 88).
Để tiến hành thu thập vật chứng phải áp dụng các phương pháp nhất định tùy vào đặc điểm của vật chứng. Nhìn chung các phương pháp bao gồm:
– Quan sát vật chứng: Đây là phương pháp cơ bản để phát hiện và ghi nhận các dấu hiệu bề ngoài của vật chứng. Quan sát là “xem xét để thấy, để biết rõ sự vật, hiện tượng nào đó”. Quan sát vật chứng là để xem xét và ghi nhận một cách đầy đủ, chính xác nhằm mục đích xác định những đặc điểm của vật chứng. Tùy từng trường hợp mà sự quan sát phải phù hợp như: Đối với hoạt động khám nghiệm hiện trường, cần phải quan sát một cách bao quát toàn bộ hiện trường và quan sát tỉ mỉ từng chi tiết đối với từng vật chứng để tìm ra các chứng cứ quan trọng của vụ án; Đối với hoạt động khám xét, cần quan sát thận trọng các đối tượng được khám xét để từ đó tìm ra các vật chứng chứa đựng các thông tin liên quan đến vụ án. Ngoài quan sát trực tiếp, vật chứng cũng có thể được quan sát gián tiếp qua khâu trung gian, đó là việc quan sát vật chứng qua lời khai của người tham gia tố tụng hay bất kỳ tổ chức, cá nhân nào khác về chúng.
– Sử dụng khoa học – kỹ thuật: Phương pháp này được dùng để phát hiện và ghi nhận các vật chứng đặc thù mà mắt thường không thể phát hiện được; các dấu vết đường vân, máu ...
– Sử dụng đo lường, miêu tả: Được sử dụng đối với những trường hợp phải xác định những đặc điểm về lượng của vật chứng, kích thước của các vật chứng, khoảng cách của vật chứng, … Thông thường những vấn đề cần đo lường đối với vật chứng bao gồm: những thuộc tính, những yếu tố của vật chứng cần được biểu hiện bằng con số đại lượng như trọng lượng, nhiệt độ; khoảng cách giữa các đồ vật, giữa các điểm cần nghiên cứu; tốc độ chuyển động của các phương tiện giao thông, động vật ...
2. Thu thập chứng cứ là lời khai, lời trình bày:
Lời khai, lời trình bày là những thông tin có liên quan đến vụ án được lưu giữ trong ý thức chủ quan của người tham gia tố tụng. Nó không thể cầm, nắm, đo, đếm được mà phải thu thập thông qua việc hỏi, trả lời của người lưu giữ thông tin đó trong nhận thức chủ quan của họ.
Căn cứ vào vai trò, đặc điểm trong các giai đoạn tố tụng, có thể phân loại lời khai, lời trình bày thành 3 nhóm như sau:
Một là: Lời khai, lời trình bày của người, pháp nhân bị nghi thực hiện hành vi phạm tội gồm: Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người tự thú, đầu thú, người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phạm tội và bị đơn dân sự. Đây là nhóm người có những dấu hiệu, tình tiết nghi là đã thực hiện hành vi phạm tội hoặc có trách nhiệm bồi thường do hành vi phạm tội. Lời khai, lời trình bày của những người này thường có 2 xu hướng, một là nhận tội, thành khẩn khai báo, hai là không thừa nhận hành vi phạm tội và đưa ra những lời khai, lời trình bày nhằm bảo vệ mình.
Hai là: Lời khai, lời trình bày của những cá nhân, tổ chức bị hành vi phạm tội tác động trực tiếp đến thể chất, tinh thần, tài sản uy tín gồm: Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra; Nguyên đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Đặc điểm chung của nhóm lời khai này là khai và trình bày về mức độ, phạm vi tác động của hành vi phạm gây ra với mình, thường theo hướng có lợi cho bản thân. Nhóm người này có thể bao gồm người cung cấp nguồn tin về tội phạm nếu nguồn tin về tội phạm đó bị hành vi phạm tội tác động trực tiếp xâm hại.
Ba là: Nhóm người không bị hành vi phạm tội xâm hại nhưng lời khai, lời trình bày của họ lại có giá trị chứng minh gồm: Người làm chứng, cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền hoặc tổ chức, cá nhân có thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm thông báo với cơ quan có thẩm quyền mà không thuộc trường hợp bị hành vi phạm tội tác động trực tiếp xâm hại. Lời khai, lời trình bày của nhóm người này thường khách quan, theo dạng “có sao nói vậy” thường chỉ sử dụng để củng cố thêm chứng cứ hoặc làm cơ sở để mở rộng điều tra, giải quyết vụ án.
Theo quy định tại điều 88 BLTTHS thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có quyền tiến hành hoạt động thu thập lời khai, lời trình bày của cơ quan, tổ chức, cá nhân những tình tiết làm sáng tỏ vụ án. Đáng chú ý, điểm mới trong BLTTHS 2015 đó là ghi nhận quyền của người bào chữa trong việc thu thập lời khai, lời trình bày đó là quyền “gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án”.
Với đặc điểm thu thập chứng cứ là lời nói nên khi thu thập lời khai, lời trình bày có sự khác biệt với các chứng cứ khác, do vậy khi thu thập cần phải thực hiện đúng những nguyên tắc sau:
– Nguyên tắc pháp chế: Thể hiện ở việc thu thập lời khai, lời trình bày phải đảm bảo theo đúng trình tự, thủ tục theo quy định của BLTTHS, bao gồm trình tự triệu tập, hỏi, lập biên bản, phổ biến quyền và nghĩa vụ … và phải tôn trọng quyền của người cung cấp lời khai, lời trình bày. Tuyệt đối không được tiến hành các thủ tục trái luật để thu thập lời khai, lời trình bày.
– Nguyên tắc vô tư, khách quan trong quá trình thu thập: Việc thu thập lời khai, lời trình bày là sự tác động qua lại giữa người thu thập và người cung cấp nên rất dễ phát sinh việc áp đặt ý chí trong quá trình thu thập bằng các hình thức mớm cung (cố tình để lộ thông tin cần hỏi để khai theo ý mình), bức cung (đe dọa, thúc ép, ngụy biện để lấy lời khai), vụ cung (nhẹ nhàng, dụ dỗ, hứa hẹn để lấy lời khai), dùng nhục hình (làm đau đớn về thể xác hoặc tinh thần để lấy lời khai). Do đó BLTTHS yêu cầu quá trình thu thập phải vô tư, khách quan, tôn trọng sự thật, tuyệt đối không được áp dụng các biện pháp để thu thập những lời khai, lời trình bày trái ý muốn của người cung cấp hoặc không được suy diễn chủ quan theo ý muốn của mình .
– Nguyên tắc thận trọng: Đây là một lưu ý đặc biệt với chứng cứ là lời khai, lời trình bày bởi như đã phân tích ở trên, đặc điểm của loại chứng cứ này là được thu thập từ ý chí chủ quan của người cung cấp, thu thập, chuyển hóa vào các dạng biên bản, tài liệu. Do đó nó luôn có thể bị thay đổi, bị chi phối bởi các yếu tố bên ngoài, việc bị can, bị cáo, người làm chứng thay đổi lời khai trong quá trình giải quyết vụ án không phải là việc hiếm trong các vụ án hình sự, do đó khi thu thập loại chứng cứ này cần hết sức thận trọng, thực hiện đúng và đầy đủ quy định về thu thập lời khai, lời trình bày, không được dễ tin và cũng không được phủ nhận toàn bộ, phải căn cứ vào đó để xác định xem có sự phù hợp với chứng cứ khác hay không để từ đó có cái nhìn toàn diện về vụ án, tìm ra được chỗ hợp lý, không hợp lý trong lời khai để củng cố tài liệu đã thu thập. Cụ thể thì theo quy định của BLTTHS:
Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án. Không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội ; Không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do người làm chứng, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó
Về phương pháp, trình tự thu thập lời khai, lời trình bày thì trong mỗi giai đoạn điều tra khác nhau có những chủ thể cung cấp lời khai, lời trình bày khác nhau do đó căn cứ vào đặc điểm, tính chất của từng giai đoạn, BLTTHS quy định những trình tự, thủ tục khác nhau để thu thập lời khai lời trình bày, nhìn chung tùy từng trường hợp thì áp dụng các phương pháp, nội dung sau:
Một là lấy lời khai ngay: Được áp dụng với các trường hợp Giữ người trong trường hợp khẩn cấp; Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an phát hiện bắt giữ, tiếp nhận người phạm tội quả tang và khi Công an phường, thị trấn, Đồn Công an tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm. Thủ tục này nhằm thu thập thông tin lời khai ban đầu sớm nhất để có thể định hình cơ bản được nội dung vụ án, vụ việc nhằm phục vụ cho các biện pháp điều tra tiếp theo.
Hai là triệu tập để lấy lời khai: Được áp dụng trước khi lấy lời khai, lời trình bày của bị can, người làm chứng, bị hại, đương sự, nội dung và thủ tục triệu được thực hiện theo quy định tại các điều 182 và 185 BLTTHS. Cần phải hiểu rằng triệu tập để lấy lời khai, lời trình bày là cơ sở xác lập cho “một lần” thu thập lời khai, lời trình bày, sau khi kết thúc, người được triệu tập về lần sau muốn lấy lời khai phải triệu tập lại. Trên thực tế việc “câu lưu” để lấy lời khai, lời trình bày vẫn xảy ra, người tiến hành triệu tập sau khi triệu tập và làm việc, không cho người bị triệu tập về mà yêu cầu ở lại từ ngày này sang ngày khác để tiện làm việc, cũng là để gây áp lực tâm lý cho người bị triệu tập, làm như vậy là không đúng theo tinh thần và quy định của BLTTHS. Mới đây, Bộ công an đã xây dựng dự thảo “Thông tư Quy định việc thực hiện dân chủ trong hoạt động điều tra của lực lượng Công an nhân dân” trong đó đáng chú ý điểm i khoản 2 Điều 7 đã quy định CQĐT không được “Gây phiền hà để người tham gia tố tụng hoặc công dân phải chờ đợi, đi lại nhiều lần; lưu giữ (câu lưu) người được triệu tập (hoặc được mời) tại trụ sở cơ quan Công an”.
Ba là phổ biến quyền và nghĩa vụ: Tất cả những người bị lấy lời khai, lời trình bày để thu thập làm chứng cứ thì đều phải được phổ biến quyền và nghĩa vụ trước khi tiến hành lấy lời khai. Đây là yêu cầu bắt buộc trước khi tiến hành, mục đích và ý nghĩa của nó là để người cung cấp lời khai, lời trình bày nắm và hiểu được quyền và nghĩa vụ của mình trước khi khai, trình bày. Tuy nhiên trên thực tế vẫn còn nhiều trường hợp đặc biệt là khi lấy lời khai bị can Điều tra viên không giải thích hoặc giải thích không đầy đủ, dẫn đến bị can không nắm bắt được quyền và nghĩa vụ của mình. Ngay cả mẫu biên bản hỏi cung bị can có in sẵn dòng chữ: “Bị can đã được giải thích quyền và nghĩa vụ theo Điều 60 của Bộ luật Tố tụng hình sự” và Điều tra viên chỉ việc cho bị can ký tên xác nhận, coi như đã tiến hành giải thích quyền, nghĩa vụ của bị can.
Bốn là nội dung lấy lời khai, lời trình bày: Khi tiến hành lấy lời khai, lời trình bày người thu thập lời khai phải căn cứ vào từng đối tượng bị lấy lời khai, những nội dung cần lấy lời khai được quy định trong BLTTHS để lấy lời khai của họ. Trong đó tập trung đối với người đang bị nghi thực hiện tội phạm thì phải thu thập những tình tiết liên quan đến việc họ bị nghi thực hiện tội phạm; đối với bị can thì phải đấu tranh, làm rõ hành vi phạm tội, nội dung của hành vi phạm tội, yêu cầu, đề nghị của bị can; đối với người bị hành vi phạm tội tác động làm phát sinh hậu quả, trách nhiệm thì phải nêu được mức độ bị ảnh hưởng như thế nào, yêu cầu, đề nghị căn cứ đề nghị đó.....
Một điểm mới đáng chú ý của BLTTHS năm 2015 đó là việc ghi âm, ghi hình quá trình lấy lời khai cụ thể: Khoản 6 điều 183 BLTTHS quy định “Việc hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh”. Điều 187 cũng quy định “Việc lấy lời khai của người làm chứng có thể ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh”. Và được hướng dẫn cụ thể tại Thông tư liên tịch số 03 ngày 01 tháng 02 năm 2018 hướng dẫn về trình tự, thủ tục thực hiện ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh; sử dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Đây là một quy định mới, tiến bộ nhằm hạn chế việc ép cung, dùng nhục hình trong quá trình lấy lời khai, đảm bảo chứng cứ này được khách quan, toàn vẹn.
Năm là lập biên bản lấy lời khai. Biên bản chính là tài liệu chuyển hóa ý chí chủ quan của người cung cấp lời khai, lời trình bày thành chứng cứ đọc được, nhìn được do đó pháp luật TTHS quy định việc lấy lời khai, lời trình bày phải được lập biên bản theo mẫu thống nhất. Có lập xong biên bản thì quá tình thu thập chứng cứ lời khai, lời trình bày mới được hoàn thiện và đầy đủ. Do đó trong quá trình lập biên bản yêu cầu phải đảm bảo đúng mẫu, nội dung và thể hiện được xuyên suốt hết toàn bộ quá trình lấy lời khai, lời trình có như vậy mới đảm bảo được giá trị của chứng cứ này.
Sáu là thu thập lời khai người dưới 18 tuổi. Người dưới 18 tuổi là một chủ thể đặc biệt trong TTHS, do đó khi thu thập chứng cứ là lời khai, lời trình bày của người dưới 18 tuổi luật cũng có những quy định đặc biệt nhằm đảm bảo sự phù hợp với tâm sinh lý của độ tuổi, như đảm bảo sự có mặt của người bào chữa hoặc người đại diện của họ; lấy lời khai không quá hai lần trong 01 ngày và mỗi lần không quá 02 giờ; Thời gian hỏi cung bị can là người dưới 18 tuổi không quá hai lần trong 01 ngày và mỗi lần không quá 02 giờ ... Ngoài ra, Thông tư liên tịch số 06/2018 giữa VKSND tối cao,
Để thực hiện hiệu quả biện pháp thu thập lời khai người dưới 18 tuổi cũng như thể hiện đúng tinh thần nhân đạo của luật thì khi tiến hành lấy lời khai, hỏi cung người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng cần có thái độ thân thiện, nhẹ nhàng, sử dụng ngôn ngữ dễ hiểu, phù hợp với độ tuổi, giới tính, khả năng nhận thức của họ; đồng thời, xem xét áp dụng các biện pháp phù hợp nhằm giảm đến mức thấp nhất thời gian, số lượng lần lấy lời khai, hỏi cung.
Bẩy là triệu tập, lấy lời khai người đại diện của pháp nhân. BLTTHS năm 2015 bổ sung quy định về thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân, trong đó có thủ tục triệu tập và lấy lời khai người đại diện của pháp nhân. Trình tự, thủ tục triệu tập và lấy lời khai pháp nhân được thực hiện theo quy định tại điều 440, 441 BLTTHS, nhìn chung việc triệu tập, lấy lời khai pháp nhân cũng không có gì khác so với thể nhân về triệu tập, phổ biến quyền và nghĩa vụ, lấy lời khai, những quy định cấm, việc lập biên bản.... Nhưng cần chú ý phải xác định đúng người đại diện của pháp nhân tránh trường hợp triệu tập và lấy lời khai không đúng người đại diện, người không có thẩm quyền đại diện cho pháp nhân.
Các nội dung quy định về pháp nhân là một quy định mới, tại buổi tập huấn “Nâng cao nhận thức về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại trong BLHS Việt Nam” diễn ra ngày 19–6–2020 tại thành phố Hồ Chí Minh, do Bộ Tư pháp tổ chức, số liệu thống kê xác định chưa có pháp nhân thương mại nào bị khởi tố. Trong thời gian tới các cơ quan trung ương cần sớm ban hành các hướng dẫn để xử lý đối với pháp nhân thương mại phạm tội, trong đó cần có các hướng dẫn về thu thập chứng cứ khi xử lý pháp nhân.
3. Thu thập chứng cứ là dữ liệu điện tử:
Theo BLTTHS năm 2015 quy định tại điều 99 thì khái niệm dữ liệu điện tử là: “ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện tử”.
Theo Luật giao dịch điện tử thì: Dữ liệu là thông tin dưới dạng ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự. Phương tiện điện tử là phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học ... Đây là loại chứng cứ phi truyền thống, không phải là sự vật hay sự kiện như quan niệm trước đây mà là những ký tự dưới dạng số hóa được lưu giữ trong phương tiện, thiết bị điện tử; Nó được tạo ra trong không gian ảo và không có tính biên giới, lãnh thổ.
Dữ liệu điện tử được được phân thành hai loại: Dữ liệu điện tử do máy tính tự động tạo ra như: “cookies”, “URL”, Email, IP, thông tin truy cập, website, ..., và dữ liệu điện tử do người sử dụng tạo ra trên phương tiện điện tử như văn bản, bảng biểu, hình ảnh, thông tin ...
Việc phân loại dữ liệu điện tử là cơ sở để xác định giá trị chứng minh của nó như dữ liệu do máy tính tạo ra sẽ giúp chứng minh về nguồn gốc truy cập, nguồn gốc tấn công vào website, thư điện tử, tài khoản, dấu vết cài mã độc, nghe lén, lấy cắp dữ liệu; Dữ liệu do người sử dụng tạo ra giúp chúng minh về người và máy tính đã tạo ra dữ liệu, nguồn gốc dữ liệu đến từ đâu, ai là người tạo ra dữ liệu.
Do đặc thù phát sinh và tồn tại của mình nên việc thu thập dữ liệu điện tử cũng có những điểm khác biệt nhất định, trình tự, thủ tục thu thập phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử được quy định tại Điều 107 của BLTTHS theo đó:
– Phương tiện điện tử phải được thu giữ kịp thời, đầy đủ, mô tả đúng thực trạng và niêm phong ngay sau khi thu giữ.
– Trường hợp không thể thu giữ phương tiện lưu trữ dữ liệu điện tử thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng sao lưu dữ liệu điện tử đó vào phương tiện điện tử và bảo quản như đối với vật chứng, đồng thời yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan lưu trữ, bảo toàn nguyên vẹn dữ liệu điện tử mà cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã sao lưu và cơ quan, tổ chức, cá nhân này phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
– Khi thu thập, chặn thu, sao lưu dữ liệu điện tử từ phương tiện điện tử, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc trên đường truyền, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiến hành phải lập biên bản và đưa vào hồ sơ vụ án.
– Việc phục hồi, tìm kiếm, giám định dữ liệu điện tử chỉ được thực hiện trên bản sao; kết quả phục hồi, tìm kiếm, giám định phải chuyển sang dạng có thể đọc, nghe hoặc nhìn được.
Do đặc thù của loại chứng cứ này mà để đảm bảo giá trị chứng minh của chứng cứ thì cần phải làm tốt trình tự, thủ tục nêu trên trong đó khi thu thập dữ liệu điện tử cần chú ý:
– Dữ liệu điện tử không chỉ có ở thiết bị điện tử của người thực hiện hành vi phạm tội, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan mà còn có khả năng ở trên máy chủ của bên thứ ba là các nhà cung cấp dịch vụ internet, ngân hàng, các nhà mạng, cổng thanh toán điện tử vì vậy bên cạnh việc trực tiếp thu giữ, sao chép dữ liệu điện tử từ thiết bị điện tử của người thực hiện hành vi phạm tội, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan thì cũng cần phải xác định và thu thập được dữ liệu điện tử ở các bên thứ ba.
– Cần phải tiến hành giám định dữ liệu điện tử để phục hồi, giải mã, phân tích, tìm kiếm dữ liệu đang lưu, tồn tại trong thiết bị lưu trữ trên mạng hoặc trong thiết bị kỹ thuật số của cá nhân, để tìm dữ liệu làm chứng cứ. Sau khi có kết luận giám định, chứng cứ điện tử được chuyển hóa thành chứng cứ vật chất có thể nhìn được, đọc được.
– Việc thu thập phương tiện điện tử và dữ liệu điện tử phải đảm bảo yêu cầu hợp pháp và xác thực tức là phải theo đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về khám xét, thu giữ, lập biên bản, chụp ảnh, vẽ sơ đồ, bảo quản vật chứng, bên cạnh đó phải đảm bảo trước, trong và sau khi thu giữ vật chứng lưu dữ liệu điện tử và dữ liệu điện tử đã thu giữ và lưu vào phương tiện điện tử không thể bị tác động bởi các yếu tố bên ngoài làm thay đổi dữ liệu. Có đủ căn cứ chứng minh vật chứng và dữ liệu điện tử làm chứng cứ có thật, tồn tại khách quan, không bị làm sai lệch, biến dạng có như vậy dữ liệu điện tử mới có thể sử dụng làm chứng cứ.
– Năng lực, trình độ của người thực hiện việc thu thập dữ liệu điện tử là rất quan trọng, nó không đơn thuần là nhìn thấy và thu giữ như vật chứng, hỏi – trả lời như lời khai, lời trình bày mà còn yêu cầu thao tác rất cao ở trình độ chuyên môn công nghệ thông tin. Do đó cần phải lựa chọn và thường xuyên đào tạo, tập huấn cho lực lượng thu thập vật chứng này. Tránh để vi phạm khi thu thập để thất lạc, biến đổi, phát tán dữ liệu) sẽ làm ảnh hưởng đến giá trị chứng minh của nó.
4. Thu thập chứng cứ là Kết luận giám định, định giá tài sản:
4.1. Kết luận giám định:
Trong quá trình giải quyết vụ án khi thuộc các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định thì Cơ quan tiến hành tố tụng phải trưng cầu giám định để xác định các vấn đề cần giải quyết của vụ án. Trình tự, thủ tục, thẩm quyền trưng cầu giám định được điều chỉnh bởi BLTTHS 2015 và một luật quan trọng khác là Luật giám định tư pháp năm 2012.
Để đảm bảo Kết luận giám định có đầy đủ giá trị để trở thành chứng cứ chứng minh, thì việc xác lập chứng cứ này có một số đặc điểm sau:
Một là chủ thể trưng cầu giám định: Theo quy định của Luật giám định tư pháp thì chủ thể trưng cầu giám định phải là cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc chủ thể yêu cầu giám định là cá nhân trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng từ chối bằng văn bản về việc yêu cầu giám định của họ. Như vậy nếu như cơ quan, tổ chức, cá nhân không phải là cơ quan tiến hành tố tụng hoặc người tiến hành tố tụng yêu cầu giám định thì dù cá nhân, cơ quan giám định tư pháp được yêu cầu có thẩm quyền đi chăng nữa thì kết luận giám định đó cũng không đảm bảo tính hợp pháp và không được coi là chứng cứ. (Trừ trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng từ chối bằng văn bản về việc yêu cầu giám định của họ), đối với trường hợp này được coi là “Giám định ngoài tố tụng” theo quy định tại Khoản 1 Điều 2 của Nghị định số 85/2013/NĐ–CP. Đây là một hạn chế của giám định tư pháp bởi giá trị khoa học của những kết luận này là như nhau, cùng do người, cơ quan có thẩm quyền, có chuyên môn trình độ kết luận, chỉ khác nhau ở chủ thể trưng cầu giám định mà điểm khác nhau này thì không ảnh hưởng đến giá trị khoa học của kết luận giám định.
Hai là trưng cầu giám định phải nhanh chóng, kịp thời: Khi tiến hành trưng cầu giám định cơ quan trưng cầu giám định phải cung cấp đối tượng cần giám định để tiến hành giám định, tuy nhiên những đối tượng này theo thời gian có thể không còn giữ được tính nguyên vẹn, ví dụ như: Vết thương tích trên người; vết máu trên dao; hàm lượng chất ma túy .... Do đó ngay sau khi thu thập hoặc có được những tài liệu, chứng cứ cần giám định thì phải trưng cầu giám định ngay, tránh trường hợp đối tượng này biến đổi tự nhiên dẫn đến kết luận giám định không khách quan điển hình là những trường hợp trưng cầu giám định mức độ tổn hại sức khỏe do hành vi cố ý gây thương tích gây ra, việc không giám định kịp thời (chủ quan hoặc khách quan) dẫn đến khi giám định vết thương, tổn hại đã lành, không còn xác định được cụ thể mức độ tổn hại được nữa.
Ba là: Không được mặc định coi Kết luận giám định là chứng cứ để chứng minh. Trên thực tế, trong quá trình giải quyết vụ án, Cơ quan tiến hành tố tụng thường mặc định thừa nhận Kết luận giám định là chứng cứ, bởi vì nó được xác lập bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, có trình độ khoa học kỹ thuật và đặc biệt là cơ quan, tổ chức, cá nhân kết luận về vấn đề được trưng cầu, yêu cầu giám định phải chịu trách nhiệm về kết luận đó có nghĩa là nếu sử dụng chứng cứ là kết luận giám định sai dẫn đến vụ án giải quyết oan sai thì cơ quan, cá nhân giám định đó phải chịu trách nhiệm chứ không phải là cơ quan tiến hành tố tụng.
Theo BLTTHS năm 2015 thì Kết luận giám định là một nguồn chứng cứ, có nghĩa nó là một nguồn trong các nguồn khác để từ đó xác định chứng cứ. Quá trình giải quyết vụ án, sau khi có được kết luận giám định, Cơ quan tiến hành tố tụng phải đối chiếu, so sánh với chứng cứ khác, trường hợp nó không phù hợp với chứng cứ khác, có sự khác biệt rõ rệt có thể quan sát, cảm nhận được sự khác nhau giữa kết luận giám định và thực tế hiện tại, ví dụ: Lời khai thể hiện hành vi cố ý gây thương tích bằng tay không nhưng kết luận giám định xác định có vết rách do vật tày sắc nhọn gây ra; hoặc có cơ sở võ ràng về việc không khách quan trong quá trình giám định, ví dụ: Sau khi có kết luận giám định, quá trình xác minh phát hiện ra giám định viên là người thân thích của bị hại, thuộc trường hợp phải từ chối giám định... thì phải áp dụng ngay những biện pháp khác để đảm bảo kết luận giám định khách quan, toàn diện như giám định bổ sung hoặc giám định lại.
4.2. Thu thập chứng cứ là kết luận định giá tài sản:
Quy định kết luận định giá tài sản là một nguồn chứng cứ là một quy định mới được xác định trong BLTTHS 2015, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn là những vụ án cần định giá tài sản ngày một lớn, quy định trình tự về định giá cũng đã có từ lâu và kết luận định giá tài sản có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xử lý tội phạm. Trong phạm vi của luận văn, học viên không tập trung vào phương pháp định giá của Hội đồng định giá mà chỉ nêu những yêu cầu, thủ tục để Cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu định giá tài sản và sử dụng kết luận định giá tài sản đó làm chứng cứ giải quyết vụ án.
Trong BLHS có rất nhiều tội danh quy định yếu tố giá trị tài sản bị xâm phạm (hư hỏng, hủy hoại, chiếm đoạt, chiếm giữ, sử dụng trái phép tài sản...) là một trong những dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Vì vậy, việc xác định giá trị tài sản bị xâm phạm có ý nghĩa quan trọng và mang tính bắt buộc để xác định hành vi xâm phạm về tài sản có phải là tội phạm hay không. Bên cạnh đó, việc định giá tài sản còn là căn cứ để xác định khung hình phạt; đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội khi lượng hình và xác định mức bồi thường cho người bị thiệt hại. Do đó BLTTHS quy định “Khi cần xác định giá của tài sản để giải quyết vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra văn bản yêu cầu định giá tài sản”.
Quá trình thu thập chứng cứ là kết luận định giá tài sản phải lưu ý các yêu cầu sau:
Một là: Việc yêu cầu và định giá tài sản phải thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định tại các điều 101, từ 215 đến 222 BLTTHS, việc thành lập và hoạt động của hội đồng định giá tài sản; trình tự, thủ tục định giá tài sản trong tố tụng hình sự được quy định tại Nghị định số 30/2018/NĐ–CP ngày 07/03/2018 của Chính phủ, sửa đổi bổ sung tại Nghị định số 97/2014/NĐ–CP ngày 23/12/2019. Thực hiện đúng những quy định này là căn cứ để xác định tính khách quan và hợp pháp của chứng cứ là Kết luận định giá tài sản.
Hai là: Chủ thể yêu cầu định giá tài sản, chỉ có cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mới được ra văn bản yêu cầu định giá tài sản trong tố tụng hình sự. Những người tham gia tố tụng không được quyền trực tiếp yêu cầu định giá tài sản mà chỉ được quyền đề nghị định giá tài sản. Trường hợp Cơ quan tiến hành tố tụng không chấp nhận đề nghị thì thông báo cho người đề nghị bằng văn bản và nêu rõ lý do. Như vậy khác với Kết luận giám định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự khi yêu cầu giám định không được chấp nhận thì có thể trực tiếp yêu cầu, đối với việc định giá tài sản thì họ không được độc lập yêu cầu định giá tài sản.
Ba là yêu cầu định giá tài sản phải nhanh chóng, kịp thời: Khi xác định cần phải định giá tài sản để giải quyết vụ án hình sự thì cơ quan tiến hành tố tụng phải yêu cầu định giá tài sản ngay, bởi việc kéo dài thời gian trước khi định sẽ làm tài sản được định giá không còn giữ được tính nguyên vẹn như khi bị hành vi phạm tội tác động, ví dụ: Sau khi thu giữ được chiếc xe bị trộm cắp, CQĐT lưu giữ xe trong sân vận động, chưa tiến hành định giá ngay, sau một thời gian chịu mưa, nắng chiếc xe xuống cấp trầm trọng, khi đưa đi định giá thì giá trị không còn được đảm bảo đúng như khi bị trộm cắp.
Bốn là: Không được mặc định coi Kết luận định giá tài sản là chứng cứ để chứng minh. Giống như kết luận giám định, trên thực tế, trong quá trình giải quyết vụ án, Cơ quan tiến hành tố tụng thường mặc định thừa nhận Kết luận định giá là chứng cứ, bởi vì nó được xác lập bởi Hội đồng định giá tài sản thành lập theo quy định của pháp luật, có trình tự, thủ tục định giá khoa học, chi tiết, đảm bảo giá tài sản một cách chính xác nhất và “Hội đồng định giá tài sản kết luận giá của tài sản và phải chịu trách nhiệm về kết luận đó”. Tuy nhiên quá trình giải quyết vụ án, sau khi có được kết luận định giá, Cơ quan tiến hành tố tụng phải đối chiếu, so sánh với chứng cứ khác xem sự phù hợp của nó với chứng cứ khác. Nếu thấy chưa phù hợp, không đúng với tính chất, mức độ, hậu quả của thực tế thì phải đặt ra vấn đề định giá lại tài sản và xem xét lại toàn bộ các chứng cứ, tài liệu khác để xác định chính xác nhất nội dung của vụ án. Đây là cơ sở để xác định tính liên quan của chứng cứ là kết luận định giá tài sản.
Năm là: Trường hợp đặc biệt, khác với kết luận giám định, định giá tài sản có thể được thực hiện khi không có tài sản theo đó Điều 219 BLTTHS quy định “Trường hợp tài sản cần định giá bị thất lạc hoặc không còn thì việc định giá tài sản được thực hiện theo hồ sơ của tài sản trên cơ sở các thông tin, tài liệu thu thập được về tài sản cần định giá”. Ví dụ: Tài sản bị trộm cắp là chiếc xe máy, đã bị đối tượng trộm cắp tiêu thụ, không thu hồi được. Trong những trường hợp này Cơ quan tiến hành tố tụng phải thu thập thông tin, tài liệu cần định giá, việc thu thập phải đảm bảo khách quan, càng chi tiết càng tốt có như vậy thì kết luận định giá tài sản mới đảm bảo phù hợp nhất với tài sản thực tế đã bị thất lạc. Ví dụ với chiếc xe máy trên cần thu thập tài liệu về loại xe, giá và thời gian mua xe, thời gian sử dụng, tần suất sử dụng, những lần đã sửa chữa, sửa chữa ở đâu.
5. Thu thập chứng cứ là biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án:
Biên bản tố tụng hình sự là các biên bản được lập bằng văn bản theo mẫu thống nhất do cơ quan, người có thẩm quyền lập để ghi lại diễn biến cụ thể của một hoạt động tố tụng hình sự hoặc để ghi lại tình trạng của một sự việc, đối tượng trong một thời điểm cụ thể để làm căn cứ để sử dụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Như đã phân tích ở Chương 1 về nguồn chứng cứ, để đảm bảo biên bản được sử dụng làm chứng cứ giải quyết vụ án cần phải đảm bảo biên bản đó được lập phải khách quan và phải lập theo đúng trình tự, thủ tục quy định tại Điều 133 BLTTHS 2015 với đầy đủ các nội dung sau:
– Địa điểm, giờ, ngày, tháng, năm tiến hành tố tụng, thời gian bắt đầu và thời gian kết thúc.
– Nội dung của hoạt động tố tụng: Biên bản được lập cho hoạt động gì, ghi lại diễn biến cụ thể của một hoạt động tố tụng hình sự nào, Ví dụ như: Biên bản hỏi cung, biên bản lấy lời khai, biên bản khám xét, biên bản thu giữ, biên bản phiên tòa, biên bản xác minh án phí.... Hay biên bản ghi lại tình trạng của một sự việc trong một thời điểm cụ thể. Ví dụ: Biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm tử thi, khám nghiệm phương tiện, biên bản xem xét dấu vết trên thân thể.
– Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hoặc người liên quan đến hoạt động tố tụng, đây là nội dung này nhằm đảm bảo vai trò, trị trí của những người tham gia vào hoạt động thiết lập biên bản, tất cả những người trong biên bản đều phải được xác định đúng tư cách tham gia tố tụng của mình, việc không xác định rõ vai trò của những người tham gia có thể sẽ ảnh hưởng đến giá trị của biên bản như người lập biên bản không đúng thẩm quyền, xác định nhầm người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ...
– Khiếu nại, yêu cầu hoặc đề nghị khi lập biên bản, đây là nội dung của biên bản nhằm đảm bảo việc lập biên bản được khách quan, những nội dung mà người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng muốn khiếu nại, yêu cầu, kiến nghị phải được thể hiện vào biên bản nhằm chắc chắn nội dung của biên bản được lập không bị áp đặt ý chí hoặc truyền đạt nội dung không tự nguyện, bị ép buộc.
– Ngoài ra, biên bản phải đảm bảo các quy định về ký xác nhận biên bản của những người tham gia lập biên bản nhằm xác định giá trị pháp lý.
6. Thu thập chứng cứ là kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác:
Khoản 1 Điều 6 Luật tương trợ tư pháp năm 2007 quy định:
Ủy thác tư pháp là yêu cầu bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài về việc thực hiện một hoặc một số hoạt động tương trợ tư pháp theo quy định của pháp luật nước có liên quan hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Đồng thời Luật Tương trợ tư pháp cũng quy định rõ về thẩm quyền, trình tự, thủ tục thực hiện tương trợ tư pháp về dân sự, hình sự, dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù giữa Việt Nam với nước ngoài; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước Việt Nam trong tương trợ tư pháp.
Việc thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế phải được thực hiện trong pháp vi pháp luật quốc gia cho phép hoặc các điều ước quốc tế mà quốc gia đó là thành viên. Theo quy định tại Điều 17 Luật tương trợ tư pháp của Việt Nam thì phạm vi tương trợ tư pháp về hình sự bao gồm: (1) Tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu liên quan đến tương trợ tư pháp về hình sự; (2). Triệu tập người làm chứng, người giám định; (3). Thu thập, cung cấp chứng cứ; (4). Truy cứu trách nhiệm hình sự; (5). Trao đổi thông tin; (6). Các yêu cầu tương trợ tư pháp khác về hình sự.
Đối với hợp tác quốc tế, thì ngoài tương trợ tư pháp về hình sự còn có các hoạt động dẫn độ; tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù và các hoạt động hợp tác quốc tế khác được quy định tại Bộ luật này, pháp luật về tương trợ tư pháp và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên .
Như vậy, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, trường hợp cần xác định những thông tin, tài liệu, chứng cứ có liên quan đến nước ngoài để giải quyết vụ án hình sự nếu thuộc phạm vi nêu trên thì Cơ quan tiến hành tố tụng có quyền đề nghị ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế để thu thập, giải quyết.
* Trình tự, thủ tục ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, khi nhận thấy cần ủy thác tư pháp hoặc kết quả hợp tác quốc tế về hình sự thì Cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam tiến hành ủy thác tư pháp, việc ủy thác tư pháp phải thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định, có như vậy kết quả của ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế mới có giá trị để sử dụng làm chứng cứ chứng minh. Luật tương trợ tư pháp và BLTTHS giao Viện kiểm sát nhân dân tối cao là đầu mối của tương trợ tư pháp và hợp tác quốc tế về hình sự do đó trình tự, thủ tục được thực hiện như sau:
– Các Cơ quan tiến hành tố tụng khi có yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự với nước ngoài thì lập và gửi hồ sơ ủy thác tư pháp đến Vụ Hợp tác quốc tế, Viện kiểm sát nhân dân tối cao để kiểm tra tính hợp lệ và chuyển cho cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thực hiện. Hồ sơ ủy thác tư pháp được lập theo quy định tại Điều 18, Điều 19 Luật tương trợ tư pháp.
Trong thời hạn mười ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ ủy thác tư pháp về hình sự, Viện kiểm sát nhân dân tối cao vào sổ ủy thác tư pháp, kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ và chuyển cho cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam và nước ngoài là thành viên hoặc thông qua kênh ngoại giao.
Trường hợp hồ sơ ủy thác tư pháp không hợp lệ thì Vụ Hợp tác quốc tế, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trả lại cho cơ quan đã lập hồ sơ và nêu rõ lý do, đồng thời hướng dẫn việc lập lại hồ sơ.
Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thông báo kết quả thực hiện ủy thác tư pháp về hình sự, Viện kiểm sát nhân dân tối cao chuyển văn bản đó cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam đã gửi hồ sơ ủy thác tư pháp về hình sự.
* Giá trị pháp lý của ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế
Sau khi nhận được kết quả ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế, Cơ quan tiến hành tố tụng phải kiểm tra, đánh giá tài liệu đó về trình tự, thủ tục, kết quả tương trợ tư pháp bởi kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế được thừa nhận là một nguồn chứng cứ nên cũng như những nguồn chứng cứ khác, nó phải được thu thập đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục và phải phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác thì mới được coi là chứng cứ có giá trị chứng minh.
7. Thu thập chứng cứ là các tài liệu, đồ vật khác:
“Các tài liệu, đồ vật khác” là một quy định mở cho thấy trong quá trình giải quyết vụ án hình sự thì tài liệu, đồ vật được cung cấp để giải quyết vụ án không có giới hạn về nguồn, bất kỳ ai cũng có quyền cung cấp tài liệu, đồ vật và trình bày những vấn đề liên quan đến vụ án nếu nó thỏa mãn các thuộc tính của chứng cứ là tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp.
Một số điểm lưu ý khi thu thập chứng cứ là tài liệu, đồ vật khác:
Một là: Không có giới hạn trong việc giao nộp tài liệu, đồ vật khác: Bộ luật TTHS không giới hạn về cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật khác, bất kỳ ai cũng được quyền cung cấp miễn là nó có liên quan đến việc giải quyết vụ án hình sự. Do đó trong quá trình giải quyết vụ án hình sự Cơ quan tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm thông báo, phát động để cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp các tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án.
Hai là: Việc giao nộp phải được lập thành biên bản. Khi tiếp nhận tài liệu, đồ vật khác cơ quan tiến hành tố tụng phải lập biên bản, biên bản phải tuân thủ đúng quy định chung về biên bản, phải thể hiện được nội dung, đặc điểm, nguồn gốc của tài liệu, đồ vật đó.
Ba là: Không được từ chối tiếp nhận. Những tài liệu, đồ vật khi được giao nộp sẽ có có giá trị buộc tội hoặc gỡ tội do đó Cơ quan tiến hành tố tụng phải khách quan, không được từ chối hay gây khó khăn trong quá trình giao nộp khi thấy không có lợi cho hướng chứng minh, giải quyết vụ án của mình.
Bốn là: Phân loại tài liệu, đồ vật, sau khi tiếp nhận tài liệu đồ vật được cung cấp, Cơ quan tiến hành tố tụng phải phân loại tài liệu, đồ vật đó nhằm giữ cho tài liệu, đồ vật đó được khách quan, ví dụ như tài liệu, đồ vật này có đặc điểm của vật chứng thì phân loại là vật chứng, bảo quản như vật chứng; tài liệu là lời khai thì phải lập biên bản lời khai, lời trình bày. Tuyệt đối không được đánh giá là tài liệu không phải mình trực tiếp thu thập mà xem nhẹ, “gói gọn” chung lại với nhau dẫn đến việc bảo quản, đánh giá không khách quan, ảnh hưởng đến việc giải quyết chung của vụ án.