Thời hiệu khởi kiện là gì? Thời hiệu khởi kiện đối với từng vụ việc dân sự? Khi nào bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện? Các trường hợp không áp dụng thời hiệu? Quy định về thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện?
Hiện nay, việc xác định đúng thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng trong hoạt động tố tụng dân sự tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cũng như trong hoạt động kiểm sát việc giải quyết các vụ án của Viện kiểm sát, giúp các đương sự bảo vệ được các quyền lợi và lợi ích hợp pháp của mình. Đã xảy ra không ít vụ án đã bị đình chỉ chỉ vì lý do hết thời hiệu khởi kiện. Chính bởi vì thế mà việc các chủ thể nắm rõ các quy định cụ thể về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự là một điều vô cùng quan trọng. Bài viết dưới đây Luật Dương Gia sẽ giúp người đọc tìm hiểu quy định về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Luật sư tư vấn luật qua điện thoại trực tuyến miễn phí: 1900.6568
1. Thời hiệu khởi kiện là gì?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 184
“Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự”
Theo quy định của Bộ Luật Tố tụng Dân sự năm 2015 thì thời hiệu khởi kiện được hiểu như sau:
Thời hiệu là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự theo quy định pháp luật sẽ được tính từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Theo đó, ta nhận thấy, thời hiệu khởi kiện là thời hạn cụ thể do pháp luật quy định mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu cơ quan Tòa án giải quyết vụ việc dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Trong trường hợp nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện theo Khoản 3 Điều 150
Thời hiệu hiện nay đóng một vai trò quan trọng trong việc ổn định các quan hệ dân sự trong xã hội. Nếu pháp luật nước ta không quy định thời hiệu, mỗi chủ thể tham gia vào quan hệ dân sự sẽ luôn bị đe dọa bởi tranh chấp có thể xảy ra trong thực tế và làm ảnh hưởng đến quyền lợi và đời sống của họ. Đối với việc giải quyết các tranh chấp dân sự, Tòa án cần phải tiến hành điều tra thu thập chứng cứ để xác định sự thật khách quan nên nếu thời gian đã qua đi quá lâu, quá trình thu thập chứng cứ khó bảo đảm chính xác, gây ra những khó khăn cho quá trình xác minh, dễ dần đến những sai lầm.
2. Thời hiệu khởi kiện đối với từng vụ việc dân sự:
Căn cứ vào từng trường hợp cụ thể mà pháp luật sẽ quy định từng thời hiệu khởi kiện khác nhau, cụ thể:
– Thời hiệu khởi kiện về tranh chấp hợp đồng dân sự là 03 năm kể từ ngày người yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm được quy định cụ thể tại Điều 429 Bộ luật Dân sự 2015.
– Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là 03 năm kể từ ngày người yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích của mình hợp pháp bị xâm phạm được quy định cụ thể tại Điều 588 Bộ luật Dân sự 2015.
– Thời hiệu khởi kiện về thừa kế đối với yêu cầu chia di sản là 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản được quy định cụ thể tại Khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự 2015.
– Thời hiệu đối với yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm được quy định cụ thể tại Khoản 2 Điều 623 Bộ luật Dân sự 2015.
– Thời hiệu đối với yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế được quy định cụ thể tại Khoản 3 Điều 623 Bộ luật Dân sự 2015.
– Thời hiệu đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được xác định theo pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự đó được quy định cụ thể tại Điều 671 Bộ luật Dân sự 2015.
– Thời hiệu khởi kiện về hư hỏng, mất mát hàng hóa là 01 năm, kể từ ngày trả hàng hoặc lẽ ra phải trả hàng cho người nhận hàng được quy định cụ thể tại Điều 169 Bộ Luật Hàng hải Việt Nam 2015.
– Thời hiệu khởi kiện về việc thực hiện hợp đồng vận chuyển theo chuyến là 02 năm, kể từ ngày người khởi kiện biết hoặc phải biết quyền lợi của mình bị xâm phạm được quy định cụ thể tại Điều 195 Bộ Luật Hàng hải Việt Nam 2015.
Như vậy, pháp luật Việt Nam đã quy định về cách tính thời hiệu khởi kiện đối với từng vụ việc, khi nào bắt đầu tính thời hiệu và cách tính cho từng vụ việc cụ thể. Việc ban hành quy định này đã góp phần bảo đảm cho quá trình giải quyết các vụ việc trong thực tế, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các chủ thể tham gia giao dịch.
3. Khi nào bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện?
Việc xác định được thời điểm bắt đầu tính thời hiệu là yếu tố quan trọng đầu tiên khi nói đến thời hiệu khởi kiện, theo Điều 154 Bộ luật dân sự năm 2015 đã đưa ra quy định như sau:
– Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được tính từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
– Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được tính từ ngày phát sinh quyền yêu cầu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Như vậy, ta nhận thấy, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được tính kể từ ngày phát sinh quyền yêu cầu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác theo quy định tại khoản 2 Điều 154 Bộ luật dân sự năm 2015.
Ngày phát sinh quyền yêu cầu là ngày các chủ thể là người có quyền yêu cầu được yêu cầu cơ quan Toà án giải quyết việc dân sự. Dựa vào từng loại việc cụ thể mà pháp luật quy định thời điểm đương sự được quyền yêu cầu toà án giải quyết việc dân sự khác nhau. Đối với thời điểm phát sinh quyền yêu cầu tởà án xem xét lại quyết định của trọng tài là ngày nhận được quyết định của hội đồng trọng tài.
Thời hiệu được tính từ thời điểm bắt đầu ngày đầu tiên của thời hiệu và chấm dứt tại thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hiệu theo quy định cụ thể tại Điều 151 Bộ luật dân sự năm 2015.
4. Các trường hợp không áp dụng thời hiệu:
Trong một số trường hợp đặc biệt do pháp luật quy định, việc áp dụng thời hiệu khởi kiện vào vụ việc dân sự không được áp dụng. Bao gồm các trường hợp sau được quy định cụ thể tại Điều 155 Bộ luật dân sự năm 2015:
– Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản.
– Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
– Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai.
– Các trường hợp khác do pháp luật quy định.
Việc ban hành quy định này là cách để bảo vệ tốt hơn nữa các quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong qua trình xác lập các giao dịch dân sự.
5. Quy định về thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện:
Theo Điều 156 Bộ luật Dân sự 2015, thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện là khoảng thời gian xảy ra một trong các sự kiện sau đây:
– Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu.
Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.
Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền, nghĩa vụ dân sự của mình.
– Chưa có người đại diện trong trường hợp người có quyền khởi kiện, người có quyền yêu cầu là người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
– Các chủ thể là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chưa có người đại diện khác thay thế trong trường hợp sau đây: Người đại diện chết nếu là cá nhân, chấm dứt tồn tại nếu là pháp nhân; người đại diện vì lý do chính đáng mà không thể tiếp tục đại diện được.
Bởi vì những nguyên nhân khác nhau mà việc khởi kiện, yêu cầu có thể không thực hiện được trong thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu khởi kiện. Nhằm mục đích để bảo đảm quyền yêu cầu toà án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ, pháp luật quy định đối với các trường hợp thời gian bị gián đoạn do xảy ra sự kiện bất khả kháng; khách quan; người có quyền khởi kiện, có quyền yêu cầu chưa thành niên, bị mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà chưa có người đại diện; người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chết nhưng chưa có người đại diện khác thay thế hoặc vì lí do chính đáng khác mà không thể tiếp tục đại diện được thì không tính vào thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu khởi kiện theo quy định của pháp luật hiện hành.
Như vậy, nhằm để việc áp dụng các quy định về thời hiệu khởi kiện trong hoạt động giải quyết các tranh chấp về dân sự được chính xác và có căn cứ pháp luật, các cơ quan tiến hành tố tụng cần kịp thời và nhanh chóng áp dụng đúng quy định của pháp luật trong từng thời điểm thích hợp đối với từng vụ án cụ thể. Không những thế, để các đương sự có nhận thức đầy đủ hơn về thời hiệu khởi kiện thì trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án cần giải thích cho đương sự biết các quy định mới của pháp luật về thời hiệu khởi kiện để các chủ thể này kịp thời thực hiện quyền khởi kiện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.