Đối tượng nào áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú? Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú là bao lâu? Khi áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, công dân có được đi làm không? Thẩm quyền ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Thủ tục áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.
Cấm đi khỏi nơi cư trú là một trong những biện pháp ngăn chặn do cơ quan có thẩm quyền ra quyết định để đảm bảo việc thực thi pháp luật một cách thuận lợi. Vậy thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú là bao lâu và khi đó có được đi làm không? Mời bạn đọc tham khảo bài viết dưới đây:
Mục lục bài viết
1. Đối tượng nào áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú?
Cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn được áp dụng. Căn cứ tại Điều 123
Mục đích áp dụng biện pháp lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú là nhằm đảm bảo khi cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có giấy triệu tập lên làm việc thì bị can, bị cáo phải có mặt.
Khi áp dụng cấm đi khỏi nơi cư trú, bị can, bị cáo phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ, bao gồm:
– Khi có giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án thì phải có mặt ngay; chỉ ngoại trừ trường hợp bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan.
– Không đi khỏi nơi cư trú nếu không được cơ quan đã ra lệnh áp dụng cấp đi khỏi nơi cư trú đồng ý cho phép.
– Không thực hiện hành vi vi phạm như tiến hành mua chuộc, xúi giục, cưỡng ép người khác khai gian dối, cung cấp những thông tin, tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, làm giả chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án hay tẩu tán những tài sản có liên quan đến vụ án; không thực hiện việc đe dọa, khống chế, hay có hành vi làm ảnh hưởng đến bị hại hoặc những người làm chứng, người tố giác tội phạm cũng như người thân của những người này.
– Không được tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn khỏi tại địa phương.
Chỉ khi cam đoan tuân thủ thực hiện những điều kiện trên thì bị can, bị cáo mới được tại ngoại ở ngoài. Nếu không tuân thủ, vi phạm những nghĩa vụ trên thì sẽ bị tạm giam.
2. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú là bao lâu?
Căn cứ tại Khoản 4 Điều 123 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không được quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của pháp luật về tố tụng Hình sự. Cụ thể là:
* Trong giai đoạn điều tra: thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú do cơ quan điều tra quyết định, nhưng không được quá thời hạn điều tra. Thời hạn điều tra được quy định như sau:
– Tội phạm ít nghiêm trọng: không quá 02 tháng
– Tội phạm nghiêm trọng: không quá 03 tháng
– Tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng: không quá 04 tháng
Thời hạn điều tra được tính kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra
* Trong giai đoạn truy tố: thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú do Viện kiểm sát quyết định nhưng không quá thời hạn truy tố
Thời hạn quyết định việc truy tố được quy định tại Điều 240 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, cụ thể đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, thời hạn là 20 ngày; đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, thời hạn là 30 ngày tính từ ngày nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra.
* Trong giai đoạn xét xử: thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú do Tòa án quyết định, nhưng đảm bảo không được quá thời hạn xét xử
– Giai đoạn xét xử sơ thẩm:
+ Trường hợp không phải gia hạn thời gian chuẩn bị xét xử thì thời hạn là 30 ngày đối với tội ít nghiêm trọng, 45 ngày đối với tội nghiêm trọng, 02 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, 03 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
+ Trường hợp phải gia hạn thời gian chuẩn bị xét xử: với đội ít nghiêm trọng và tội nghiêm trọng gia hạn thêm 15 ngày; đối với tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng gia hạn thêm 30 ngày.
+ Trong trường hợp bị cáo đang bị cấm đi khỏi nơi cư trú mà đến ngày mở phiên tòa, thời hạn cấm đã hết mà xét thấy nếu cần thiết thì Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tiếp tục cho đến khi kết thúc phiên tòa.
+ Trường hợp nếu như bị cáo đang bị cấm đi khỏi nơi cư trú mà bị xử phạt tù nhưng xét thấy cần tiếp tục áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú để bảo đảm cho việc thi hành án hoặc hoàn tất thủ tục chuyển hồ sơ đến Tòa án cấp phúc thẩm do bản án bị kháng cáo hoặc kháng nghị thì Hội đồng xét xử ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án.
– Giai đoạn xét xử phúc thẩm:
+ Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú là 60 ngày đối với Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu; đối với Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án quân sự trung ương là 90 ngày tính từ thời điểm Tòa án thụ lý vụ án đến trước ngày mở phiên tòa phúc thẩm.
+ Với trường hợp bị cáo đang bị cấm đi khỏi nơi cư trú, cơ quan có thẩm quyền xét thấy việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú để tiến hành hoàn thành việc xét xử thì Hội đồng xét xử ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến khi kết thúc phiên tòa.
+ Trường hợp bị cáo đang bị cấm đi khỏi nơi cư trú, bị tuyên xử phạt tù mà đến thời điểm kết thúc phiên tòa phúc thẩm đã hết hạn thì Hội đồng xét xử tiếp tục ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú để bảo đảm việc thi hành án là 45 ngày kể từ ngày tuyên án.
3. Khi áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, công dân có được đi làm không?
Về nguyên tắc theo quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 123
Đồng thời theo quy định tại Khoản 5 Điều 123 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú hoặc đơn vị quân đội đang quản lý bị can, bị cáo quản lý, theo dõi họ. Nếu trong trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan bị can, bị cáo phải tạm thời đi khỏi nơi cư trú sẽ phải có sự đồng ý của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc đơn vị quân đội quản lý họ và phải có giấy cho phép của người đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.
Do vậy, nếu căn cứ quy định trên thì đối với người đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, pháp luật không cấm việc đi làm nhưng đi làm thì cần phải liên hệ, xin phép chính quyền xã, phường, thị trấn nơi cư trú hoặc đơn vị quân đội nơi quản lý để được cấp giấy phép tạm thời đi khỏi nơi cư trú.
4. Thẩm quyền ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú:
Căn cứ tại khoản 3 Điều 123 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định những đối tượng sau đây có thẩm quyền ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú:
– Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp
– Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp
– Chánh án, Phó Chánh án TAND và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử
– Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Đồn trưởng Đồn biên phòng.
5. Thủ tục áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú:
Khi áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, cơ quan có thẩm quyền phải áp dụng theo trình tự, thủ tục sau đây:
– Bị can, bị cáo phải tiến hành làm giấy cam đoan thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo quy định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
– Cơ quan có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú bằng văn bản. Nội dung của văn bản phải bao gồm đầy đủ các nội dung sau: căn cứ áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; các nghĩa vụ mà bị can, bị cáo phải chấp hành; địa chỉ xã/phường/thị trấn nơi bị can, bị cáo đang cư trú;…
– Sau đó, người ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải thông báo về việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cho chính quyền xã/phường/thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú, đơn vị quân đội đang quản lý bị can, bị cáo và giao bị can, bị cáo cho chính quyền xã/phường/thị trấn hoặc đơn vị quân đội đó để quản lý, theo dõi họ.
– Nếu như bị can, bị cáo vi phạm cam đoan nghĩa vụ thì chính quyền xã/phường/thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú, đơn vị quân đội đang quản lý bị can, bị cáo phải báo ngay cho cơ quan đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú để xử lý theo thẩm quyền.