Thủ tục yêu cầu thi hành án quyền nuôi con mới nhất 2021? Không thi hành án có bị cưỡng chế thi hành án giao con? Phải làm gì khi không chịu thi hành án, không giao con cho người trực tiếp nuôi dưỡng theo quyết định của Tòa án?
Tóm tắt câu hỏi:
Chào Luật sư. Tôi muốn hỏi quyền được nuôi con khi vợ chồng ly hôn với lý do không còn yêu nhau nữa. Tôi có 1 đứa 6 tuổi và 1 đứa 8 tháng tuổi. Tôi là vợ có nguyện vọng được nuôi cả 2 đứa. Tôi làm CBCNV ngân hàng, mức thu nhập bình quân 15 triệu/tháng. Chồng tôi kinh doanh thu nhập cao hơn tôi. Người kia có nghĩa vụ chu cấp tiền nuôi con đến lúc trưởng thành không? Việc phân chia tài sản thế nào? Xin LS tư vấn giúp. Tôi chân thành cảm ơn.
Luật sư tư vấn:
Thứ nhất, quyền nuôi con
Căn cứ Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn như sau:
“Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn
1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”
Nếu hai vợ chồng bạn không thỏa thuận được ai nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con.
– Đối với con nhỏ 08 tháng tuổi sẽ được giao trực tiếp cho bạn nuôi trừ trường hợp bạn không đủ điều kiện nuôi con.
Điều kiện nuôi con được xem xét dựa trên 02 điều kiện chính:
+ Kinh tế: có thu nhập ổn định, đảm bảo cuộc sống cho con.
+ Nhân thân: có nhân thân tốt, chưa từng phạm tội, có lối sống lành mạnh.
Nếu bạn đảm bảo được 02 điều kiện trên thì bạn sẽ được giành quyền nuôi con nhỏ.
– Đối với con lớn 06 tuổi, Tòa án sẽ xem xét giữa vợ và chồng dựa trên các điều kiện trên và căn cứ điều kiện vật chất khác như: Ăn, ở, sinh hoạt, điều kiện học tập… các yếu tố về tinh thần: Thời gian chăm sóc, dạy dỗ, giáo dục con, tình cảm dành cho con, điều kiện cho con vui chơi giải trí, trình độ học vấn… để quyết định giao con cho ai nuôi là hợp lý.
Thứ hai, về nghĩa vụ cấp dưỡng
Căn cứ Điều 82
“Điều 82. Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”
Điều 118
“Nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
1. Người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự nuôi mình;
2. Người được cấp dưỡng được nhận làm con nuôi;
3. Người cấp dưỡng đã trực tiếp nuôi dưỡng người được cấp dưỡng;
4. Người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng chết;
5. Bên được cấp dưỡng sau khi ly hôn đã kết hôn;
6. Trường hợp khác theo quy định của luật.”
Điều 20 Bộ Luật dân sự 2015 quy định người thành niên như sau:
Luật sư tư vấn luật ly hôn trực tuyến qua tổng đài điện thoại: 1900.6568
“Điều 20. Người thành niên
1. Người thành niên là người từ đủ mười tám tuổi trở lên.
2. Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại các điều 22, 23 và 24 của Bộ luật này.”
Như vậy, người nào không trực tiếp nuôi con sau ly hôn thì có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con đến khi con đủ 18 tuổi trở lên và có khả năng lao động.
Thứ ba, phân chia tài sản chung của vợ chồng
Căn cứ Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn như sau:
“Điều 59. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn
1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.
Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.
2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.
Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
5. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
6. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn Điều này.”
Như vậy, theo quy định, tài sản chung vợ chồng sẽ được chia đôi cho vợ và chồng đồng thời có tính đến các yếu tố như công sức đóng góp, lỗi của mỗi bên,… theo quy định trên.
Mục lục bài viết
- 1 1. Quyền nuôi con khi chưa có đăng ký kết hôn
- 2 2. Điều kiện để giành quyền nuôi cả hai con?
- 3 3. Quyền nuôi con thuộc về ai nếu chồng cờ bạc, rượu chè
- 4 4. Xử lý khi chồng không chấp hành bản án của tòa về quyền nuôi con
- 5 5. Có điều kiện kinh tế thì có giành được quyền nuôi con không?
- 6 6. Giành lại quyền nuôi con khi chồng giao cho ông bà nội nuôi
- 7 7. Làm gì khi cố tình không chấp hành bản án về quyền nuôi con?
- 8 8. Điều kiện để giành quyền nuôi con khi ly hôn
- 9 9. Cách tranh chấp về quyền nuôi con khi ly hôn
1. Quyền nuôi con khi chưa có đăng ký kết hôn
Tóm tắt câu hỏi:
Tôi sống với người yêu và có con gái năm nay 5 tuổi. Chúng tôi không đăng ký kết hôn. Mới đây người yêu tôi bế con về nhà cha mẹ đẻ và cắt đứt mọi liên lạc với tôi. Tôi muốn khởi kiện ra tòa để giành quyền nuôi con có được không?
Luật sư tư vấn:
Theo Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định: “Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng”.
1. Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.
2. Trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều này nhưng sau đó thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn.
Theo Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 “Quyền, nghĩa vụ giữa nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng và con được giải quyết theo quy định của Luật này về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con.”. Lúc này việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con tuân theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Cụ thể:
“1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”.
Như vậy, trong trường hợp này, con của bạn đã 5 tuổi nên vợ bạn sẽ không đương nhiên có quyền nuôi con theo quy định trên. Theo đó, bạn hoàn toàn giành được ưu thế nuôi con nếu bạn chứng minh được khả năng tài chính và các điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng con tốt hơn vợ.
Vì vậy, khi khởi kiện ra tòa, muốn nhận được quyền nuôi con bạn phải chuẩn bị toàn bộ những giấy tờ hợp pháp mà mình có để chứng minh tài chính, điều kiện sống và các điều kiện khác để có thể trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con tốt hơn vợ bạn về mọi mặt, đảm bảo quyền lợi tối ưu cho con để thuyết phục Tòa án phán xét và trao quyền nuôi con cho mình.
2. Điều kiện để giành quyền nuôi cả hai con?
Tóm tắt câu hỏi:
Chào luật sư ! Em quảng ninh và muốn nhờ luật sư tư vấn giúp em vấn đề như sau. Em kết hôn từ năm 2007 và đã ly thân từ tháng 03/ 2014 cho đến nay. Em đã gửi đơn lên tòa và xin ly hôn từ tháng 3/2015 cho đến nay đang chờ giải quyết em không hiểu vài vấn đề nên mong luật sư tư vấn giúp em với. Trong quá trình hôn nhân chồng em đi học và đứng tên vay ngân hàng một số tiền để học hành và trang trải cuộc sống. Nay ra tòa thẩm phán nói rằng đó là nợ chung trong quá trình hôn nhân và nói em cũng phải có trách nhiệm trả vì đó là nợ chung thì có đúng hay không?
Em cũng đứng ra vay mượn bạn bè một số vốn để kinh doanh làm ăn khi vẫn còn tồn tại hôn nhân nhưng không có giấy tờ. Nay em có thể mời người cho em vay làm chứng cho em và quy thành nợ chung giống như anh ta và thẩm phán giải thích là dù đứng cá nhân nhưng mục đích sử dụng là chi tiêu gia đình thì vẫn là nợ chung như vậy có được không? Về tài sản : Khi còn chung sống cùng em tự đứng tên vay mượn mua trả góp và bố mẹ đẻ giúp đỡ cho thêm tiền để mua sắm một số đồ dùng gia đình như tivi ,tủ lạnh ,điều hòa ,máy giặt… khi ly thân em đã mang đi bán để trang trải cuộc sống cho cả 3 mẹ con vì ly thân em mang cả các cháu đi ra thuê nhà sống cùng.
Nay ra tòa anh ta kê khai số đồ dùng đó là tài sản chung và đòi chia thì có được hay không? Về con cái: Em được hai cháu một cháu gần 8 tuổi và một cháu được 28 tháng. Em muốn được giành quyền nuôi cả hai cháu thì phải làm như thế nào. Vì em được biết theo luật bé dưới 36 tháng được giao hoàn toàn cho mẹ. Còn cháu lớn em đã đưa lên tòa và lấy ý kiến của cháu muốn được ở với mẹ. Vì khi ly thân em đã mang cả hai cháu đi sống cùng ổn định cuộc sống và học hành đầy đủ. Anh ta vài tháng mới sang chơi với con và tiền học của các cháu thì tháng gửi tháng không. Phải làm những gì để em có thể dành quyền nuôi cả hai cháu. Mong luật sư tư vấn giúp em . Em xin chân thành cám ơn luật sư.
Luật sư tư vấn:
Thứ nhất về vấn đề chồng bạn đứng tên vay tiền ngân hàng để đi học và trang trải cuộc sống thì đó có được coi là nợ chung trong thời kỳ hôn nhân không?
Theo quy định tại Điều 37 Luật hôn nhân gia đình năm 2014:
“Điều 37. Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng
Vợ chồng có các nghĩa vụ chung về tài sản sau đây:
1. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;
2. Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình;
3. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;
4. Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;
5. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường;
6. Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan.”
Như vậy, nếu chồng của bạn vay khoản tiền trên của ngân để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình thì khoản tiền đó có thể được coi là nợ chung trong thời kỳ hôn nhân bạn sẽ phải chịu trách nhiệm liên đới trong việc trả nợ. Tuy nhiên, nếu bạn chứng minh được việc vay tiền trên của vợ bạn sử dụng vào mục đích riêng, không sử dụng vào sinh hoạt thiết yếu của gia đình mà bạn không biết về khoản vay này thì về nguyên tắc, bạn không có nghĩa vụ liên đới trả khoản nợ đó cùng chồng bạn.
Thứ hai, về vấn đề cá nhân bạn đứng ra vay tiền bạn của bạn để làm ăn có được coi là nợ chung trong thời kỳ hôn nhân không?
Tương tự như trường hợp đầu tiên nếu bạn muốn Tòa án xem xét đây là nợ chung trong thời kỳ hôn nhân thì bạn cần phải chứng minh hai vấn đề:
– Giao dịch vay tiền này là giao dịch hợp pháp;
– Và số tiền vay này là để phục vụ nhu cầu thiết yếu của gia đình như: ăn, mặc, ở, chăm sóc sức khỏe cho các thành viên trong gia đình…
Thứ ba về vấn đề chồng bạn kê khai số đồ dùng, tài sản mà bạn đã bán và đòi chia thì có được hay không?
Về vấn đề này, trước tiên bạn phải xác định được số đồ dùng, tài sản đó có phải là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không? Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định:
“Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.”
Đối chiếu với trường hợp cụ thể của bạn, tuy số đồ dùng và tài sản này là cá nhân bạn tự đứng tên vay mượn mua trả góp và bố mẹ bạn giúp đỡ cho thêm tiền để mua sắm nhưng số tài sản này thời điểm phát sinh là thời điểm trong thời kỳ hôn nhân và cũng để phục vụ cho mục đích gia đình nên có thể được coi là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Khi được coi là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì cả bạn và chồng bạn đều bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung theo quy định tại Điều 29 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
Vì vậy, việc chồng bạn kê khai và đòi chia số tài sản này là hoàn toàn đúng với các quy định của pháp luật. Tuy nhiên bạn cũng có thể trình bày vấn đề bạn vay tiền để mua số tài sản này để Tòa án xem xét đây là nợ chung trong thời kỳ hôn nhân.
Thứ tư, về vấn đề tranh chấp quyền nuôi con:
Đối với trường hợp của cháu dưới 36 tháng tuổi, cháu sẽ được giao cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc theo quy định tại Khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình 2014
Đối với trường hợp của cháu 8 tuổi, Tòa sẽ xem xét nguyện vọng muốn được sống với ai của cháu và xem xem khả năng nuôi dưỡng, chăm sóc của cả bố lẫn mẹ để quyết định giao cháu cho một trong 2 người.
3. Quyền nuôi con thuộc về ai nếu chồng cờ bạc, rượu chè
Tóm tắt câu hỏi:
Thưa luật sư, tôi lấy chồng từ tháng 6/2014, đến nay chưa đăng ký kết hôn và đã có con chung gần 2 tháng. Nhưng chồng tôi cờ bạc, rượu chè, trai gái, đánh đập tôi từ khi tôi còn mang thai. Sau khi sinh con anh ta chửi mắng tôi thậm tệ, xem thường gia đình tôi, không chu cấp cho vợ con tôi đồng nào. Anh ta đã bắt con tôi đi một lần và dọa sẽ dành quyền nuôi con. Tôi muốn nuôi con trong trường hợp này, nhờ luật sư tư vấn và hướng dẫn cho tôi, hiện tại thu nhập ổn định của tôi là 2 triệu/tháng, tôi phải làm gì để có thể giành quyền nuôi con ?
Luật sư tư vấn:
Tại khoản 1 điều 14 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng” . Do đó, về mặt pháp luật bạn và người cha của đứa bé không được coi là vợ chồng.
Tuy nhiên, dù không phải là vợ chồng nhưng quyền và nghĩa vụ của nam, nữ sống với nhau như vợ chồng và con được giải quyết theo quy định về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con (khoản 3 Điều 81)
Như vậy, xét thấy trường hợp của bạn, con của bạn gần 2 tháng ( dưới 36 tháng tuổi), hơn nữa bạn đang có công việc ổn định lương 2 triệu/tháng đó là một trong những điều kiện để bạn nuôi dưỡng con, quyền nuôi con sẽ thuộc về bạn. Bạn hãy làm đơn ra tòa để xác định quyền nuôi con. Bạn chỉ bị hạn chế quyền nuôi con trong trường hợp sau đây:
– Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con
– Phá tán tài sản của con
– Có lối sống đồi trụy
– Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội
Như vậy, nếu bạn không thuộc các trường hợp trên thì không ai có quyền hạn chế quyền của bạn đối với con bạn Trong trường hợp người cha ngăn cản bạn đón con về nuôi, bạn có thể khởi kiện ra Tòa để đề nghị giải quyết.
4. Xử lý khi chồng không chấp hành bản án của tòa về quyền nuôi con
Tóm tắt câu hỏi:
Vợ chồng tôi tiến hành ly hôn. Tại bản án phúc thẩm ngày 12/12/2015, tòa án tỉnh X đã tuyên rằng tôi có quyền nuôi con nhưng chồng tôi không đồng ý và cố tình giấu con tránh mặt tôi. Tôi phải làm gì đề giành lại quyền nuôi con?
Luật sư tư vấn:
Tôi xin đưa ra các phương án giải quyết như sau;
Trường hợp 1:
Nếu xác định được địa chỉ của người chồng thì có thể lên UBND xã để yêu cầu trợ giúp để người chồng giao con.
Đối với hành vi của người chồng có thể bị xử phạt hành chính theo Điều 53 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định về hành vi ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu, giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau.
“Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với hành vi ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con, trừ trường hợp cha mẹ bị hạn chế quyền thăm nom con theo quyết định của tòa án; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau.”
Trường hợp 2:
Theo quy định tại Điều 45 Luât Thi hành án dân sự 2014
“Điều 45. Thời hạn tự nguyện thi hành án
- Thời hạn tự nguyện thi hành án là 10 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án nhận được quyết định thi hành án hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án.”
Nhưng trong trường hợp này bản án tuyên ngày 12/12/2015 nên đã hết thời hạn tự nguyện thi hành án.
Do đó, chị có thể gửi đơn yêu cầu thi hành án lên Cục thi hành án tỉnh X( thời hiệu yêu cầu thi hành án là 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án) .Chị có thể tự mình hoặc nhờ người khác yêu cầu thi hành án bằng hình thức nộp đơn trực tiếp hoặc gửi qua bưu điện hoặc trình bày bằng lời nói.
Nội dung đơn theo quy định tại khoản 2 điều 31 Luật Thi hành án dân sự 2014:
“2. Đơn yêu cầu phải có các nội dung sau đây:
a) Tên, địa chỉ của người yêu cầu;
b) Tên cơ quan thi hành án dân sự nơi yêu cầu;
c) Tên, địa chỉ của người được thi hành án; người phải thi hành án;
d) Nội dung yêu cầu thi hành án;
đ) Thông tin về tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, nếu có;
e) Ngày, tháng, năm làm đơn;
g) Chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm đơn; trường hợp là pháp nhân thì phải có chữ ký của người đại diện hợp pháp và đóng dấu của pháp nhân, nếu có.”
Theo quy định tại khoản 1 Điều 46 Luật thi hành án dân sự 2014:
“Điều 46. Cưỡng chế thi hành án
Hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 45 của Luật này, người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế.”
Trong trường hợp này do chồng chị là người có điều kiện thi hành án là giao con cho chị nuôi nhưng chồng chị đã không tự nguyện thi hành án nên có thể bị áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định tại Điều 120 Luật Thi hành án dân sự 2014:
“Điều 120. Cưỡng chế giao người chưa thành niên cho người được giao nuôi dưỡng theo bản án, quyết định
1. Chấp hành viên ra quyết định buộc giao người chưa thành niên cho người được giao nuôi dưỡng theo bản án, quyết định. Trước khi cưỡng chế giao người chưa thành niên cho người được giao nuôi dưỡng, Chấp hành viên phối hợp với chính quyền địa phương, tổ chức chính trị – xã hội tại địa phương đó thuyết phục đương sự tự nguyện thi hành án.
2. Trường hợp người phải thi hành án hoặc người đang trông giữ người chưa thành niên không giao người chưa thành niên cho người được giao nuôi dưỡng thì Chấp hành viên ra quyết định phạt tiền, ấn định thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định phạt tiền để người đó giao người chưa thành niên cho người được giao nuôi dưỡng. Hết thời hạn đã ấn định mà người đó không thực hiện thì Chấp hành viên tiến hành cưỡng chế buộc giao người chưa thành niên hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự về tội không chấp hành án.”
Trường hợp 3:
Nếu chồng chị cố tình không chấp hành bản án mà Tòa án Tỉnh X đã tuyên thì chồng chị có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 380 Bộ Luật Hình sự 2015:
” Người nào có điều kiện mà không chấp hành bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”
5. Có điều kiện kinh tế thì có giành được quyền nuôi con không?
Tóm tắt câu hỏi:
Xin chào Luật sư. Tôi xin phép được nhờ luật sư tư vấn giúp. Hai vợ chồng tôi lấy nhau được 3 năm nay và có 01 đứa con chung 2 tuổi. Do quá trình sống chung tôi và vợ tôi thật sự có cách nghĩ khác nhau, cách cư xử khác nhau không thể hòa hợp nên thường xuyên cuộc sống rất nặng nề. nay muốn ly hôn. Nhưng tôi rất muốn được nuôi con. Tài sản là 1 ngôi nhà tôi làm trước khi yêu và cưới vợ tôi. Kinh tế thu nhập hàng tháng tôi gấp 2 lần vợ tôi. Vậy tôi có nhiều cơ hội để giành quyền nuôi con không? Mong Luật sư tư vấn giúp. Tôi xin chân thành cảm ơn.
Luật sư tư vấn:
Trong trường hợp Tòa án giải quyết ly hôn, việc trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn thực hiện theo quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 như sau:
” 1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”
Với việc nuôi con khi ly hôn thì pháp luật tôn trọng sự thỏa thuận của hai vợ chồng. Trong trường hợp vợ, chồng không đạt được sự thỏa thuận thì Tòa án quyết định giao con cho một bên căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con, có tính đến việc xem xét nguyện vọng của con (nếu con từ đủ 7 tuổi trở lên).
Hiện nay con bạn 2 tuổi, nếu tại thời điểm Tòa án xét xử con của bạn chưa đủ 3 tuổi, quyền nuôi con sẽ được ưu tiên giao cho mẹ nuôi, trừ trường hợp người mẹ không có đủ điều kiện nuôi con. Điều kiện nuôi con sẽ được xem xét dựa trên các căn cứ sau:
+ Thu nhập hàng tháng (có đảm bảo để nuôi cháu hay không?)
+ Chỗ ở ổn định (Có đảm bảo để cháu có chỗ ở lâu dài hay không?)
+ Môi trường sống (Có đảm bảo cho sự phát triển cả về tinh thần lẫn thể chất của cháu hay không?)
+ Thời gian làm việc (Có thời gian để chăm sóc cháu hay không?)
+ Hành vi của cha mẹ ( Có ảnh hưởng trực tiếp đến tinh thần và sự phát triển của trẻ)
Nếu bạn chứng minh được với những điều kiện trên, bạn đáp ứng tốt hơn so với vợ bạn ngược lại vợ bạn không đảm bảo được các điều kiện trên thì bạn có thể giành được quyền nuôi con.
Nếu khi Tòa án giải quyết, con bạn đã đủ 3 tuổi thì cha và mẹ có quyền giành quyền nuôi con thông qua việc chứng minh được ai sẽ là người có đủ điều kiện vật chất và tinh thần để đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích cho đứa trẻ. Các yếu tố về vật chất như: gia cảnh, thu nhập, điều kiện kinh tế, tài sản…Các yếu tố về tinh thần như: Thời gian chăm sóc, dạy dỗ, giáo dục con, tình cảm dành cho con, điều kiện cho con vui chơi giải trí, trình độ học vấn… của cha mẹ. Bên nào đưa ra được những căn cứ thuyết phục hơn sẽ được tòa án xem xét giải quyết và trao quyền nuôi con.
6. Giành lại quyền nuôi con khi chồng giao cho ông bà nội nuôi
Tóm tắt câu hỏi:
Chào luật sư! Vợ chồng tôi li hôn được hai tháng khi ra toà chia chồng tôi nuôi cháu trai còn tôi nuôi bé gái, nhưng từ khi cháu về ở vời bố thì bố cháu đi làm xa lên một tuần về thăm cháu một lần, cháu ở với ông bà nội, ngày nào cũng nhớ mẹ và đòi về ở với mẹ! Vậy xin hỏi luật sư đến 28-11 này cháu được 7 tuổi vậy tôi có thể làm đơn xin giành lại quyền nuôi con được không ạ? Vì chồng tôi không trực tiếp nuôi cháu mà nhờ ông bà nội chăm sóc còn cháu thì không muốn ở với ông bà muốn về với mẹ! Xin kính mong luật sư cho tôi lời khuyên! Xin cảm ơn!!!?
Luật sư tư vấn:
Theo quy định tại Điều 84 Luật hôn nhân gia đình 2014 về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn:
“1. Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều này, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
2. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được giải quyết khi có một trong các căn cứ sau đây:
a) Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con;
b) Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
3. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên.
4. Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự….”
Tuy nhiên nếu bạn có thể thỏa thuận lại với chồng bạn về việc thay đổi người nuôi dưỡng con thì bạn hoàn toàn có quyền viết đơn yêu cầu xin thay đổi người nuôi dưỡng của con trai bạn, về việc con trên 7 tuổi thì Tòa án sẽ xem xét thêm về ý kiến của con trong trường hợp này, nếu chồng cũ của bạn, con bạn đều đồng ý và bạn chứng minh được việc mình có đủ điều kiện nuôi đứa trẻ này thì Tòa án sẽ công nhận yêu cầu của bạn. Căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự 2015:
“3. Đương sự có quyền nộp đơn khởi kiện lại trong các trường hợp sau đây:
a) Người khởi kiện đã có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự;
b) Yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà trước đó Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu mà theo quy định của pháp luật được quyền khởi kiện lại;
c) Đã có đủ điều kiện khởi kiện;
d) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.”
7. Làm gì khi cố tình không chấp hành bản án về quyền nuôi con?
Tóm tắt câu hỏi:
Chào luật sư tôi có một câu hỏi nhờ luật sư tư vấn giúp tôi tôi và vợ tôi mới ly hôn được 30 ngày. Chúng tôi có hai con chung khi ly hôn tòa án giải quyết cho tôi được quyền nuôi con trai lớn, vợ tôi được nuôi con gái thứ hai. Bây giờ vợ tôi đem cả hai con đi, tôi có được quyền không cho cô ấy đem con trai lớn đi không? Rất mong được sự tư vấn giúp đỡ của luật sư tôi xin cảm ơn luật sư rất nhiều!
Luật sư tư vấn:
Điều 17 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 quy định về hiệu lực của bản án sơ thẩm của tòa án như sau: “Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn do Bộ luật này quy định thì có hiệu lực pháp luật.” Thời hạn kháng cáo, kháng nghị bản án sơ thẩm được quy định tại Điều 273 và Điều 280 với nội dung:
– Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
– Thời hạn kháng nghị đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm của Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 01 tháng, kể từ ngày tuyên án. Trường hợp Kiểm sát viên không tham gia phiên tòa thì thời hạn kháng nghị tính từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được bản án.
Như vậy, bạn cần xem xét lại tình huống của bạn, hai vợ chồng bạn ly hôn đã có bản án của Tòa án hay chưa? Đối chiếu với quy định của các quy định về kháng cáo, kháng nghị bản án sơ thẩm với thực tế tình huống của bạn để xác định bản ản của Tòa sau 30 ngày là có hiệu lực hay chưa? Trong trường hợp tại phiên tòa không có ai vắng mặt, vợ chồng bạn ly di có bản án của Tòa án được 30 ngày, hết 30 ngày vẫn không có kháng cáo hay kháng nghị của các cá nhân, tổ chức có quyền kháng cáo, kháng nghị thì bản này là bản án có hiệu lực thi hành, tức các bên trong bản ản phải có trách nhiệm thực hiện theo quyết định của bản án.
Luật thi hành án dân sự 2008 quy định “Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm” là bản án, quyết định được thi hành, và Điều 9 của Luật này quy định về việc thi hành án như sau:
“1. Nhà nước khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành án.
2. Người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của Luật này.”
Như vậy, trong trường hợp bản án của bạn có hiệu lực xác định mỗi người có trách nhiệm nuôi 1 con, thì vợ bạn phải có trách nhiệm thi hành án là giao con lại cho bạn luôn. Khi vợ bạn không tự nguyện thi hành án, bạn có quyền yêu cầu thi hành án với cơ quan thi hành án để thực hiện cưỡng chế thi hành án nếu cần thiết. Đối với thời hạn, trình tự, thủ tục yêu cầu thi hành án được tại các điều từ Điều 30 đến Điều 53 của
8. Điều kiện để giành quyền nuôi con khi ly hôn
Tóm tắt câu hỏi:
Tôi có 2 đứa con gái 1 bé 2 tuổi, 1 bé 5 tuổi. Vợ chồng tôi ly hôn tôi muốn nuôi cả 2 đứa con, nhưng chồng không đồng ý, chồng tôi chia đôi mỗi người nuôi 1 đứa. Hiện tại thu nhập của tôi 6,5 triệu đồng/tháng, chồng tôi 3,5 triệu/tháng. Chúng tôi chưa có nhà riêng đang ở chung với bố mẹ chồng, xin hỏi quý luật sư làm thế nào để tôi có thể được nuôi 2 đứa con, liệu pháp luật có bảo vệ bà mẹ mức thu nhập như tôi không. Xin chân thành cảm ơn luật sư, xin hãy tư vấn giúp tôi.
Luật sư tư vấn:
Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn như sau:
– Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăn sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của pháp luật
– Vợ chồng bạn thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi con căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 7 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
– Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không có đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
Trong trường hợp của bạn, vợ chồng bạn có hai con thì khi vợ chồng bạn ly hôn, vấn đề nuôi con sẽ giải quyết như sau:
– Bé gái 2 tuổi (dưới 36 tháng tuổi) thì quyền nuôi bé sẽ được ưu tiên giao cho bạn, trừ trường hợp bạn không có đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc hai vợ chồng bạn có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
– Đối với người con 5 tuổi, khi vợ chồng bạn ly hôn thì tòa án sẽ xem xét để quyết định ai là người có quyền nuôi con dựa trên các điều kiện sau:
+ Điều kiện về kinh tế bao gồm: ăn, ở, sinh hoạt, điều kiện học tập,… các yếu tố đó dựa trên thu nhập, tài sản, chỗ ở của cha mẹ.
+ Điều kiện nhân thân bao gồm: thời gian chăm sóc, dạy dỗ, giáo dục con, tình cảm đã dành cho con từ trước đến nay, điều kiện cho con vui chơi giải trí, nhân cách đạo đức, trình độ học vấn,.. của cha mẹ.
3. Kết luận
Nếu bạn có đủ khả năng kinh tế cũng như nhân thân như trên thì bạn có thể giành được quyền nuôi con với chồng bạn, trừ khi giữa hai vợ chồng bạn có thỏa thuận khác.
9. Cách tranh chấp về quyền nuôi con khi ly hôn
Tóm tắt câu hỏi:
Xin luật sư tư vấn giúp tôi với: Tôi với chồng tôi kết hôn năm 2011 và 1 có con trai 6 tuổi. Nhưng hiện nay chúng tôi phát sinh mâu thuẫn nên không thế sống chung được nữa. Nhưng chúng tôi không thỏa thuận được việc nuôi con, vì tôi muốn nuôi con nhưng chồng tôi cũng muốn nuôi con. Nhưng thực tế từ 3 năm trở về đây chồng tôi không hề đưa tiền lương cho tôi để nuôi con, chi phí nuôi con tôi tự lo hết. Xin được nói rõ chồng tôi làm công chức ở xã, lương tháng gần 4 triệu, còn tôi thì chỉ là cán bộ bán chuyên trách ở ủy ban phường, thu nhập cũng gần 4 triệu.
Như vậy nếu tôi chứng minh được kinh tế và môi trường sống của tôi tốt hơn chồng tôi, tôi có được nuôi con không. Vì nếu chồng ở riêng khi chồng tôi nuôi con thì sẽ không ai trông nom khi chồng tôi vắng nhà. Còn tôi thì ở cùng bà ngoại và thực ra là khá giả hơn chồng tôi nhiều. Vì vậy Tòa có căn cứ vào cái mác công chức của chồng tôi để chồng tôi nuôi không, giúp tôi với. Không có con tôi thì chắc tôi chết luôn, vì bố cháu là một người rất vô tâm, không bao giờ quan tâm đến cháu.
Luật sư tư vấn:
Về vấn đề nuôi con khi ly hôn: Theo quy định của pháp luật thì con sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha mẹ đều có quyền được cha mẹ thương yêu, chăm nom, nuôi dưỡng. Do vậy, cho dù bạn có ly hôn hay không, dù trong thời kỳ hôn nhân, hay sau khi ly hôn thì chồng bạn và bạn đều có nghĩa vụ phải quan tâm, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc con.
Tuy nhiên, với việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con sau khi ly hôn thì tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định:
“Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn
1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”
Xem xét trong tình huống của bạn thì hiện nay, hai vợ chồng bạn muốn ly hôn và đang có sự tranh chấp về quyền nuôi đứa con duy nhất (mới 6 tuổi) của hai người. Bạn và chồng bạn đều mong muốn được nuôi con ở đây. Trong trường hợp này, do con của bạn mới chỉ có 6 tuổi nên căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, trước hết hai vợ chồng bạn có thể thỏa thuận về người sẽ trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của các bên đối với con sau khi ly hôn. Trong trường hợp, hai vợ chồng bạn cùng thỏa thuận được về vấn đề này thì Tòa án sẽ công nhận thỏa thuận đó.
Luật sư tư vấn ly hôn trực tuyến miễn phí qua tổng đài điện thoại:1900.6568
Trong trường hợp, hai vợ chồng không thể thỏa thuận được thì khi ly hôn, Tòa án sẽ quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi con căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con.
Do vậy, đối với con mới 06 tuổi mà bạn muốn giành được quyền nuôi con thì bạn phải đưa ra những chứng cứ, chứng minh ưu thế của mình, đảm bảo được quyền lợi tốt nhất cho con, ví dụ như điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng, điều kiện học hành, hoàn cảnh sống của con… Và để chứng minh ưu thế của mình, bạn có thể đưa ra các chứng cứ thể hiện điều kiện kinh tế của mình như thang bảng lương, hợp đồng lao động, Giấy tờ về chỗ ở hợp pháp của bạn, rồi điều kiện học tập mà bạn có thể mang lại cho con sau này; đưa ra các lý lẽ thể hiện việc bạn là người thường xuyên, chăm sóc cho con, hiểu được tâm lý, tính cách của con…
Cụ thể: theo thông tin thì chồng bạn là công chức ở xã, lương tháng cũng gần 4 triệu; còn bạn chỉ là cán bộ bán chuyên trách, thu nhập cũng gần 4 triệu. Có thể thấy, cả hai vợ chồng bạn đều có công việc, có thu nhập ổn định, và về điều kiện kinh tế cũng tương đương nhau. Tuy nhiên, bạn nói rằng trong suốt 03 năm trở về trước thì chồng bạn không hề đưa tiền lương cho bạn nuôi con. Đồng thời, sau này, nếu chồng bạn nuôi con thì con của bạn có thể không nhận được sự chăm sóc một cách tốt nhất khi chồng bạn ở một mình mà vắng nha; còn bạn thì ở cùng bà ngoại và có nhiều điều kiện chăm sóc con hơn. Những tình tiết này được xác định là một trong những căn cứ có lợi để bạn có thể chứng minh điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc con của bạn tốt hơn so với người chồng của bạn.
Tuy nhiên, việc xác định cụ thể ai là người trực tiếp nuôi con còn phụ thuộc vào nhận định, quan điểm của Tòa án trên cơ sở xem xét điều kiện của hai vợ chồng bạn, và dựa trên những chứng cứ, giấy tờ chứng minh kèm theo. Bạn sẽ giành được quyền nuôi con nếu bạn chứng minh được bạn có lợi thế, và tạo được điều kiện tốt nhất, đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho con, cho sự phát triển của con. Còn việc chồng của bạn có là công chức hay không, không phải là điều kiện để Tòa án giao cho chồng bạn trực tiếp nuôi con, mà chỉ cho thấy chồng bạn đang có một công việc ổn định mà thôi.