Hiện nay, không ít trường hợp giới trẻ chung sống với nhau như vợ chồng mà không thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn. Thực tế xảy ra nhiều trường hợp tranh chấp và nhiều hành vi vi phạm phát sinh. Vậy chung sống như vợ chồng là gì? Thế nào là vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng?
Mục lục bài viết
1. Chung sống như vợ chồng là gì?
Chung sống như vợ chồng là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó…
Theo điều 147 Bộ luật hình sự quy định về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng, như sau:
– Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
– Phạm tội trong trường hợp đã có quyết định của Toà án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC hướng dẫn áp dụng Chương XV “Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình” của Bộ luật hình sự do Bộ Tư pháp – Bộ Công an – TANDTC – Viện KSNDTC ban hành, thì hành vi “chung sống như vợ chồng”: Là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó…
Tuy nhiên, chỉ có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này khi thuộc một trong các trường hợp:
– Hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng gây hậu quả nghiêm trọng, như làm cho gia đình của một hoặc cả hai bên tan vỡ dẫn đến ly hôn, vợ hoặc chồng, con vì thế mà tự sát, v.v…
– Người vi phạm chế độ một vợ, một chồng đã bị xử phạt hành chính về một trong những hành vi được liệt kê trong Điều 147 Bộ luật hình sự, nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt hành chính (theo quy định tại Điều 11
Trong trường hợp đã có quyết định của Tòa án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng theo khoản 2 Điều 147 Bộ luật hình sự.
Trường hợp vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội của mình khi đã có quyết định của Tòa án tiêu hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái pháp luật thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm (khoản 2).
2. Xử phạt đối với hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng:
Tóm tắt câu hỏi:
Chào Luật sư! Luật sư cho tôi hỏi: Tôi có một người bạn gái đang nuôi con một mình bị một người đàn ông đã có vợ con nói dối là chưa vợ. Anh ta tán tỉnh bạn tôi và nói rằng sẽ cưới, đến ở nhà bạn ấy 6 tháng nay và đến giờ cô ấy đã biết mình bị lừa. Vậy người đàn ông đó có vi phạm pháp luật không? Và vi phạm thì xử phạt như thế nào?
Luật sư tư vấn:
Theo quy định của pháp luật hiện hành.
“Điều 147, Bộ luật hình sự quy định về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng
1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.
2. Phạm tội trong trường hợp đã có quyết định của Toà án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.”
Nghị định 82/2020/NĐ-CP quy định về hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình như sau:
“Điều 38. Hành vi vi phạm quy định về đăng ký kết hôn
1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung giấy tờ do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền cấp để làm thủ tục đăng ký kết hôn.
2. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
a) Cho người khác sử dụng giấy tờ của mình để làm thủ tục đăng ký kết hôn hoặc sử dụng giấy tờ của người khác để làm thủ tục đăng ký kết hôn;
b) Cung cấp thông tin, tài liệu hoặc cam đoan, làm chứng sai sự thật về tình trạng hôn nhân để làm thủ tục đăng ký kết hôn.
3. Hình thức xử phạt bổ sung:
Tịch thu tang vật là giấy tờ, văn bản bị tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung đối với hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều này.
4. Biện pháp khắc phục hậu quả:
Như vậy, đối với trường hợp của bạn, do bên bạn nữ bị lừa dối nên có thể áp dụng như sau:
Nếu người đàn ông này ( đã có vợ) sống với bạn của bạn trong khoảng thời gian 6 tháng mà gây ra hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này thì anh ta sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự. Tùy vào tính chất vụ việc có thể bị bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.
Nếu ở mức độ nhẹ hơn thì sẽ chịu xử phạt vi phạm hành chính từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng.
3. Giải quyết trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng:
Tóm tắt câu hỏi:
Chào Luật sư! Tôi và chồng tôi không có đăng ký kết hôn, chúng tôi đã có một đứa con gái 11 tháng tuổi. Chồng tôi không lo làm ăn, suốt ngày chơi bời, nhậu nhẹt rồi về đánh đập tôi. Hiện nay mẹ chồng và chồng tôi đang giữ con, không cho tôi bế con. Chồng tôi còn dọa sẽ giết tôi, giết cả gia đình tôi, chửi bới gia đình tôi thậm tệ. Luật sư cho tôi hỏi làm sao để con tôi được ở với tôi và chồng tôi không đánh đập tôi nữa! Cảm ơn Luật sư!
Luật sư tư vấn:
Chồng bạn và bạn chung sống với nhau như vợ chồng, không có đăng ký kết hôn, theo quy định Luật hôn nhân và gia đình 2014 không công nhận mối quan hệ nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng. Tuy nhiên nếu phát sinh vấn đề về tài sản chung hay con chung trong quá trình hai người chung sống với nhau thì vẫn được giải quyết theo quy định
Trong trường hợp này, để bảo vệ quyền lợi của bạn, bạn nên tố cáo hành vi đánh đập bạn của chồng bạn đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền: Uỷ Ban nhân dân xã hoặc công an xã hoặc các ban ngành đoàn thể khác can thiệp (Hội phụ nữ,…) để chấm dứt hành vi bạo lực hoặc áp dụng các biện pháp cần thiết, bạn có thể liên hệ với các tổ chức xã hội để được tư vấn, hỗ trợ khi quyền lợi bị xâm phạm.
Như vậy, tùy vào mức độ, tính chất của hành vi bạo lực gia đình của chồng bạn, chồng có thể bị xử phạt hành chính hoặc xử lý hình sự.
Căn cứ Điều 56 Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định hành vi ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau
“Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con, trừ trường hợp cha mẹ bị hạn chế quyền thăm nom con theo quyết định của toà án; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau.”
Như vậy, bạn có thể đồng thời làm đơn tố cáo tới cơ quan công an cấp xã nơi chồng bạn đang cư trú về hành vi ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc giữa bạn và con của mẹ chồng và người chồng đồng thời buộc yêu cầu chấm dứt hành vi ngăn chặn.
Nếu nay bạn không muốn chung sống với người chồng hiện tại thì bạn có quyền làm đơn khởi kiện tới Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người chồng đang sinh sống để yêu cầu giải quyết tranh chấp quyền nuôi con.
Căn cứ Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn như sau:
“1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”
Con bạn nay 11 tháng tuổi, quyền ưu tiên nuôi con sẽ được giao cho bạn, trừ trường hợp bạn không có đủ điều kiện nuôi con. Điều kiện nuôi con quy định dựa trên 2 điều kiện chính:
– Điều kiện kinh tế: Một trong hai bên có thu nhập ổn định, đảm bảo cuộc sống cho con.
– Điều kiện nhân thân: Có nhân thân tốt, chưa từng phạm tội, không có hành vi vi phạm, có lối sống lành mạnh,…
Như vậy, nếu bạn đảm bảo cả 02 điều kiện trên thì bạn sẽ giành được quyền nuôi con.
4. Trách nhiệm pháp lý đối với hành vi chung sống như vợ chồng với người khác:
Tóm tắt câu hỏi:
Anh chị cho em hỏi. Vợ chồng em lấy nhau được 3 năm và đã có một bé gái được 9 tháng tuổi. Gần đây em phát hiện chồng em có con với một người phụ nữ khác năm nay đứa bé được 7 tuổi và chồng em đã giấu em hàng tháng chu cấp cho hai mẹ con đó với số tiền là 1 triệu. Giờ người phụ nữ kia muốn kiện chồng em thì chồng em có sao không và hàng tháng gia đình em có phải chu cấp gì cho hai mẹ con nhà đó nữa không?
Luật sư tư vấn:
Theo như thông tin bạn cung cấp thì vợ chồng bạn lấy nhau đã được 3 năm và có con 9 tháng tuổi, bạn phát hiện ra chồng của bạn có con với người khác và đứa bé đã được 7 tuổi. Như vậy, bạn cần xác định việc kết hôn giữa vợ chồng bạn phải đúng theo pháp luật, đáp ứng đủ các yêu cầu của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, có giấy đăng ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật.
Tiếp theo, bạn phải xác định chồng của bạn và người phụ nữ kia có quan hệ hôn nhân hay không, trong trường hợp hai người đó đã từng có quan hệ hôn nhân, có đăng ký kết hôn và có con chung nếu chưa ly hôn thì việc kết hôn sau giữa bạn và chồng bạn bị coi là không hợp pháp và đã vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng theo quy định của Bộ luật Hình sự như sau:
Điều 147. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng
1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.
2. Phạm tội trong trường hợp đã có quyết định của Toà án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
Trong trường hợp này người phụ nữ kia có quyền tố cáo chồng của bạn với hành vi vi phạm này.
Nếu giữa chồng của bạn và người kia đã có quan hệ hôn nhân và đã ly hôn, đứa bé 7 tuổi là con chung của hai người thì căn cứ theo Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, chồng của bạn là người không trực tiếp nuôi con chung phải có nghĩa vụ chu cấp cho con. Nếu hai bên không thỏa thuận được mức cấp dưỡng hay những vấn đề liên quan đến việc ly hôn, tài sản chung của hai bên thì người phụ nữ kia có quyền khởi kiện chồng bạn để giải quyết những vấn đề đó.
Điều 82. Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
1. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.
2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Nếu như giữa hai người đó chưa từng có quan hệ hôn nhân được pháp luật công nhận có nghĩa là hiện tại, bạn và chồng bạn đã kết hôn, theo như pháp luật quy định thì giữa hai người đã xác lập quan hệ hôn nhân trong khi chồng bạn và người phụ nữ kia chưa xác lập mối quan hệ đó theo pháp luật. Nếu như chồng của bạn và người phụ nữ kia sau khi kết hôn với bạn có hành vi chung sống như vợ chồng. Theo Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định về hành vi này như sau:
Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng.
Hành vi này theo quy định tại Điều 5 là một trong những hành vi vi phạm việc bảo vệ chế độ hôn nhân như sau:
Điều 5. Bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình
1. Quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập, thực hiện theo quy định của Luật này được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
2. Cấm các hành vi sau đây:
a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;
b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;
c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;
d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
đ) Yêu sách của cải trong kết hôn;
e) Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn;
g) Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính;
h) Bạo lực gia đình;
i) Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi.
3. Mọi hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình phải được xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan khác có thẩm quyền áp dụng biện pháp kịp thời ngăn chặn và xử lý người có hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình.
4. Danh dự, nhân phẩm, uy tín, bí mật đời tư và các quyền riêng tư khác của các bên được tôn trọng, bảo vệ trong quá trình giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình.
Nếu người phụ nữ kia khởi kiện chồng bạn về hành vi này, chồng của bạn có thể bị xử phạt hành chính theo quy định Nghị định 110/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã)
Theo như quy định trên thì trường hợp người phụ nữ đó đã biết chồng bạn đã kết hôn mà vẫn chung sống như vợ chồng với anh thì cũng vi phạm quy định và bị xử phạt tương tự theo điểm c Khoản 1 ở trên.
Nếu người đó muốn kiện chồng của bạn xung quanh vấn đề nhận con và cấp dưỡng cho con chung, vấn đề này sẽ liên quan tới việc xác định cha của đứa bé vì rõ ràng giữa hai người không có quan hệ vợ chồng, người đó không thể tiến hành kiện chồng của bạn về những vấn đề liên quan tới nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Điều 15 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định:
Điều 15. Quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
Quyền, nghĩa vụ giữa nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng và con được giải quyết theo quy định của Luật này về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con.
Theo đó, người phụ nữ có con chung với chồng bạn hoàn toàn có quyền yêu cầu xác nhận quan hệ cha con giữa chồng bạn và đứa bé.
Điều 102. Người có quyền yêu cầu xác định cha, mẹ, con
1. Cha, mẹ, con đã thành niên không bị mất năng lực hành vi dân sự có quyền yêu cầu cơ quan đăng ký hộ tịch xác định con, cha, mẹ cho mình trong trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 101 của Luật này.
2. Cha, mẹ, con, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án xác định con, cha, mẹ cho mình trong trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 101 của Luật này.
3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự; xác định con cho cha, mẹ chưa thành niên hoặc mất năng lực hành vi dân sự trong các trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 101 của Luật này:
a) Cha, mẹ, con, người giám hộ;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
d) Hội liên hiệp phụ nữ.
Nếu chồng của bạn tự nguyện nhận con hoặc được Tòa án yêu cầu xác nhận ADN đúng là cha của đứa bé thì anh phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho đứa bé vì không phải là người trực tiếp nuôi con.
Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình 2014:
Điều 110. Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con
Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con.
Như vậy, chồng của bạn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho đứa bé cho tới khi đứa bé thành niên. Pháp luật không có quy định cụ thể về mức cấp dưỡng này mà chỉ nêu ra những nguyên tắc như sau:
Điều 116. Mức cấp dưỡng
1. Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Do vậy nếu không đồng ý với việc cấp dưỡng tự nguyện 1 triệu đồng/ tháng cho con ngoài giá thú của chồng bạn, mẹ của đứa bé có quyền yêu cầu khởi kiện để Tòa án giải quyết.