Quy định của pháp luật về thành viên hợp danh, thành viên góp vốn của loại hình công ty hợp danh. Thành viên của công ty hợp danh theo Luật doanh nghiệp 2014.
Công ty hợp danh là doanh nghiệp nhà nước mà trong đó phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (thành viên hợp danh). Tuy nhiên, bên cạnh thành viên hợp danh thì công ty hợp danh còn có thể có thành viên góp vốn. (Theo Điều 172 Luật doanh nghiệp 2014).
1. Thành viên hợp danh
Theo quy định của
Theo đó, thành viên hợp danh theo Luật doanh nghiệp 2014 chỉ có thể là cá nhân; trong một số trường hợp đặc biệt thành viên hợp danh phải có chứng chỉ hành nghề hoặc bằng cấp nghiệp vụ nhất định (chẳng hạn công ty hoạt động trong các ngành nghề như dịch vụ pháp lý, khám chữa bệnh, dược phẩm…).
Theo khoản 2 Điều 18 Luật doanh nghiệp 2014 các đối tượng sau đây không thể trở thành viên công ty hợp danh:
“Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam có sử dụng tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình; cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức; sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam, trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp; cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong doanh nghiệp nhà nước, trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác; người chưa thành niên, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự; người đang chấp hành hình phạt tù, quyết định xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc đang bị cấm hành nghề kinh doanh, đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định, liên quan đến kinh doanh theo quyết định của Tòa án; các trường hợp khác theo quy định của pháp luật về phá sản, phòng, chống tham nhũng.”
Thành viên hợp danh có quyền quản lý công ty, tiến hành các hoạt động nhân danh công ty đồng thời phải chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới đối với các nghĩa vụ của công ty.
Theo Điều 176 Luật doanh nghiệp thành viên hợp danh có quyền như một chủ công ty thực sự, chịu trách nhiệm vô hạn khi thực hiện các hoạt động nhân danh công ty. Thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm về các hoạt động của công ty kể từ khi đăng ký vào danh sách thành viên công ty, bất kể thành viên có tham gia trực tiếp vào các hoạt động phát sinh trách nhiệm ấy hay không trừ trường hợp thành viên đó và các thành viên còn lại có thỏa thuận khác (Theo Khoản 3 Điều 181 Luật doanh nghiệp 2014).
Ngay cả khi chấm dứt tư cách thành viên công ty hợp danh thì trong thời hạn hai năm thành viên hợp danh vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các khoản nợ của công ty đã phát sinh trước ngày chấm dứt tư cách thành viên (Theo Khoản 5 điều 180 Luật doanh nghiệp 2014). Xuất phát từ vai trò quan trọng của thành viên hợp danh cùng chế độ trách nhiệm vô hạn của loại thành viên này mà pháp luật đã quy định một số hạn chế đối với quyền thành viên hợp danh đó là:
“Thành viên hợp danh không được làm chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên hợp danh của công ty hợp danh khác, trừ trường hợp được sự nhất trí của các thành viên hợp danh còn lại.
Thành viên hợp danh không được quyền nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác thực hiện kinh doanh cùng ngành, nghề kinh doanh của công ty đó để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác.
Thành viên hợp danh không được quyền chuyển một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình tại công ty cho người khác nếu không được sự chấp thuận của các thành viên hợp danh còn lại” (điều 175 Luật doanh nghiệp 2014)
Như vậy, thành viên hợp danh có vai trò quan trọng đối với sự tồn tại cũng như hoạt động của công ty hợp danh. Điều này lý giải việc thay đổi thành viên hợp danh phải tuân theo quy định khắt khe của pháp luật . Công ty hợp danh muốn tiếp nhận thành viên hợp danh mới phải được ít nhất ¾ tổng số thành viên hợp danh chấp nhận nếu điều lệ công ty không có quy định khác. Theo Điều 180 Luật doanh nghiệp, tư cách thành viên chấm dứt trong các trường hợp sau:
- Tự nguyện rút khỏi công ty
Trước đây thành viên hợp danh muốn rút khỏi công ty rất hạn chế và khó khăn vì loại thành viên này có vai trò quan trọng trong trong công ty hợp danh và việc rút ra này kéo theo sự thay đổi về cơ cấu, tổ chức nhân sự cũng như thay đổi bộ máy quản lý điều hành của công ty hợp danh. Quy định như vậy gây khó khăn cho các thành viên hợp danh trong việc thay đổi môi trường đầu tư kinh doanh, họ không được linh hoạt trong việc thay đổi, chuyển hướng đầu tư mô hình có lợi. Luật doanh nghiệp 2014 đã cho phép thành viên hợp danh được quyền tự nguyện rút vốn song việc tự nguyện rút vốn của thành viên hợp danh cũng chỉ được coi là hợp lệ khi có ít nhất ¾ tổng số thành viên hợp danh chấp thuận nếu điều lệ công ty không có quy định khác.
- Chết hoặc bị tòa án tuyên bố là chết
Trường họp này người thừa kế của thành viên hợp danh bị chết hoặc bị tòa án tuyên bố là chết được hưởng phần giá trị tài sản của công ty sau khi đã trừ đi phần nợ thuộc trách nhiệm của người đó. Người thừa kế có thể trở thành thành viên hợp danh nếu được hội đồng thành viên đồng ý.
- Bị tòa án tuyên bố là mất tích, hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc mất năng lực hành vi dân sự
Khi thành viên hợp danh bị tòa án tuyên bố mất tích thì đương nhiên tư cách thành viên hợp danh của thành viên đó bị chấm dứt. Thành viên hợp danh là người quản lý công ty nên khi bị hạn chế hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì tư cách thành viên đó phải chấm dứt. Trong trường hợp này phần vốn góp của thành viên đó được hoàn trả công bằng và thỏa đáng
- Bị khai trừ khỏi công ty
Các trường hợp bị khai trừ thành viên hợp danh được quy định tại khoản 3 Điều 180 Luật doanh nghiệp 2014; nếu điều lệ công ty không quy định thì thành viên hợp danh bị khai trừ khi được sự chấp thuận của ít nhất ¾ tổng số thành viên hợp danh.
- Các trường hợp khác do pháp luật quy định
Nghiên cứu và phân tích một số vấn đề cơ bản về thành viên hợp danh cho thấy thành viên hợp danh có vai trò quan trọng, có quyền quản lý và thực hiện một số hoạt động kinh doanh nhân danh công ty, đồng thời với quyền hạn đó là chế độ trách nhiệm liên đới và vô hạn đối với nghĩa vụ của công ty hợp danh.
2. Thành viên góp vốn
Theo quy định tại khoản 1 Điều 18 Luật doanh nghiệp thì thành viên này có thể là cá nhân, pháp nhân trừ những trường hợp thuộc Khoản 2 Điều 18 thì không được góp vốn vào doanh nghiệp nói chung và công ty hợp danh nói riêng.
Do tính chất và vai trò của loại thành viên này trong công ty hợp danh, theo quy định của pháp luật hiện hành thì thành viên góp vốn không có yêu cầu gì ngoài yêu cầu về vốn; thành viên góp vốn chỉ phải chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn góp vào công ty. Có thể nói rằng một khi các thành viên này góp đủ phần vốn góp là họ hết trách nhiệm, các chủ nợ không có quyền đòi nợ một cách trực tiếp đối với các thành viên này.
Do tính chất chịu trách nhiệm hữu hạn nên các thành viên góp vốn vào công ty hợp danh không có quyền tham gia, điều hành, quản lý công ty hoặc nhân danh công ty. Điều này nhằm tránh cho bên thứ ba khi giao dịch với công ty có thể bị ngộ nhận về tư cách thành viên góp vốn lầm tưởng rằng thành viên này cũng là một thành viên hợp danh có trách nhiệm vô hạn đối với nghĩa vụ của công ty. Mặt khác, thành viên hợp danh có quyền quản lý công ty vì phải chịu trách nhiệm về các hoạt động của công ty hợp danh bằng cả tài sản của mình trong khi thực tế nếu để thành viên góp vốn can thiệp vào công việc quản lý, điều hành công ty thì rất có thể thành viên hợp danh phải chịu ảnh hưởng của thành viên góp vốn.
Như vậy, hoạt động của công ty có thể có thể sẽ bị các thành viên này thao túng, các thành viên hợp danh không có quyền gì mà ngược lại họ phải chịu trách nhiệm trên cả tài sản của mình. Tuy nhiên quy định này của pháp luật cũng có một bất cập đó là trong trường hợp cần phải ký kết một loại hợp đồng có ý nghĩa sống còn đối với công ty nhưng chỉ có thành viên góp vốn mới có thể nhân danh công ty ký kết hợp đồng mà thành viên này không có quyền này nên đã bỏ lỡ một cơ hội làm ăn và công ty bị phá sản. Vì vậy, nên chăng Luật doanh nghiệp cần quy định thêm “thành viên góp vốn có thể nhân danh công ty trong một số trường hợp đặc biệt nếu được các thành viên hợp danh đồng ý”.
Ngoài ra, các thành viên góp vốn còn được chia lợi nhuận và được chia giá trị tài sản còn lại của công ty khi công ty giải thể theo tỷ lệ quy định tại điều lệ công ty. Khác với thành viên hợp danh trong công ty thành viên góp vốn có quyền tự do hơn trong việc chuyển nhượng phần vốn góp của mình cho người khác và cũng kể từ thời điểm chuyển nhượng phần vốn góp này tư cách thành viên góp vốn trong công ty cũng chấm dứt. Thông thường sự ra đi của thành viên hợp danh là lý do giải thể của công ty nhưng nếu thành viên góp vốn ra khỏi công ty thì công ty vẫn hoạt động bình thường.