Thánh Mẫu Liễu Hạnh xuất phát từ tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt Nam từ lâu đời nhằm thể hiện sự trân trọng, biết ơn với những người mẹ, người phụ nữ bên cạnh. Khám phá câu chuyện về Thánh Mẫu Liễu Hạnh và những ngôi đền thờ Người trên khắp đất nước qua bài viết sau của Văn Hoá Trầm Hương. Bài viết dưới đây sẽ cung cấp cho bạn đọc những hiểu biết về Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
Mục lục bài viết
1. Thánh Mẫu Liễu Hạnh là ai?
Thánh Mẫu Liễu Hạnh là một vị trong ba vị Tam Tòa Thánh Mẫu, một vị thần quan trọng trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt. Liễu Hạnh là Công Chúa Thiên Đình, con gái thứ hai của Ngọc Hoàng Thượng Đế. Người dân kính trọng và thờ phụng bà từ xa xưa. Bà được biết đến với nhiều danh xưng như Mẫu Đệ Nhị Tiên, Mã Hoàng Bồ Tát, Thiên Tiên Thánh Mẫu, v.v.
Cùng với Sơn Tinh, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử, Thánh Mẫu Liễu Hạnh được phong là Tứ Bất Tử, nghĩa là trường tồn với nhân gian và hậu thế.
2. Sự tích Thánh Mẫu Liễu Hạnh:
Thánh Mẫu Liễu Hạnh thường giáng trần giúp dân an cư lạc nghiệp, chăn nuôi gia súc, phát triển kinh tế, v.v. Dân gian thường truyền tụng ba lần giáng thế của bà như sau:
2.1. Thánh Mẫu Liễu Hạnh giáng thế lần thứ nhất:
Truyền thuyết kể rằng lần đầu tiên Thánh Mẫu Liễu Hạnh sinh ra là con gái của một cặp vợ chồng già người Nam Định, một cặp vợ chồng luôn sống khiêm nhường và làm việc thiện, nhưng họ vẫn không có con trong hơn 40 năm. Vào ngày rằm tháng hai năm ấy, vợ chồng ông được báo mộng rằng Ngọc Hoàng cho người con gái thứ hai của mình đầu thai làm con của nhà này. Sau đó, người phụ nữ sinh một cô con gái vào đêm ngày 6 tháng 3 năm Quý Sửu.
Con gái tên là Phạm Tiên Nga. Thánh mẫu Liễu Hạnh tuy xinh đẹp, tài giỏi nhưng luôn từ chối lấy chồng vì muốn ở vậy phụng dưỡng cha mẹ già. Cặp đôi vợ chồng già yếu và sau đó trở về tiên cảnh. Tiên Nga cũng đã làm tròn bổn phận nên đi khắp nơi giúp đỡ người dân. Bà mất năm 1473 thời Hồng Đức lúc 40 tuổi.
2.2. Thánh Mẫu Liễu Hạnh giáng thế lần thứ hai:
Công chúa Liễu Hạnh sinh lần thứ hai là con gái của Lê Thái Công, bà Trần Thị Phúc, cũng quê ở Nam Định và được đặt tên là Lê Giang Tiên.
Lần này Thánh Mẫu Liễu Hạnh lấy Tiên sinh là Trần Đạo Lang, sinh được một trai một gái tên là Nhân, Hoa. Nhưng đến năm 21 tuổi (Đinh Sửu 1577) thì bà đột ngột qua đời, tuy không bệnh tật gì.
2.3. Thánh Mẫu Liễu Hạnh giáng thế lần thứ ba:
Dân gian cho rằng vì kiếp trước chưa trọn vẹn, còn nghĩa cũ nên vào năm Canh Dần (1650) bà đã hạ thế tại làng Tây Mỗ, Thanh Hóa. Ngày 10 tháng 10, bà kết duyên cùng Tiên sinh Mai Thanh Lâm (vốn là ông Trần Đào Lang chuyển kiếp).
Thời gian này, trong lúc thiên hạ loạn lạc, Trịnh Nguyễn phân tranh, đời sống nhân dân cơ cực nên Thánh Mẫu Liễu Hạnh đã đi khắp nơi cứu dân trừng trị kẻ ác. Đó là lý do tại sao người ta xây dựng một ngôi đền ở vùng quê này.
3. Những ngôi đền thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh:
Để tưởng nhớ những lần giáng thế của Thánh Mẫu Liễu Hạnh giúp đỡ dân chúng, nhân dân đã xây dựng nhiều đền thờ trên khắp mọi miền đất nước. Nổi tiếng nhất trong số đó là Đền Thánh Mẫu Liễu Hạnh ở Quảng Bình, Phủ Tây Hồ ở Hà Nội và Đền Phủ Dầy ở Nam Định.
3.1. Đền Thánh Mẫu Liễu Hạnh ở Quảng Bình:
Lịch sử và kiến trúc:
Dưới chân đèo Ngang có một ngôi miếu nhỏ nằm ven đường cái thờ công chúa Liễu Hạnh. Thời vua Lê Thái Tổ (1385-1433), công chúa Liễu Hạnh giáng trần mở quán nước dưới chân đèo Ngang bán hàng cho khách bộ hành. Vẻ đẹp làm siêu lòng người của nàng nơi đèo núi heo hút gió đã sớm lọt vào tai vị hoàng tử đương thời. Tuy nhiên, vị này có ý đồ xấu xa nên đã bị Liễu Hạnh làm cho dở điên dở dại. Khi đó, nhà vua sai một đạo sĩ đến bắt nàng về hỏi tội, nhưng khi vua nghe kể về hành vi của hoàng tử, ông không còn cách nào khác ngoài cách ngậm bồ hòn làm ngọt, cảm tạ rồi để nàng đi. Sau khi nàng mất, nhân dân nơi đây đã lập đền thờ tại vị trí đó để tưởng nhớ.
Đền thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh bên dãy Hoành Sơn là di tích về sự giáng thế của bà vào năm đó. Tổng diện tích đền khoảng 350 m², hướng mặt ra biển và phía sau là vùng Hoành Sơn. Từ ngoài vào trong có cổng đền, đến bức bình phong, tam quan, trụ lân và cuối cùng là đền Đường, đền Hậu. Công trình là một công trình kiến trúc thu nhỏ của châu Á được xây dựng từ những vật liệu gần gũi như đá, gạch và vôi, mang đậm bản sắc văn hóa của dân tộc. Kiến trúc của ngôi đền được trang trí bằng những mảnh sứ ghép lại một cách khéo léo đã thu hút rất nhiều khách du lịch.
Cách di chuyển:
Đền thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh thuộc xã Quảng Đông, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Bạn có thể đến sân bay Đồng Hới và thuê xe ô tô đến Đền Thánh. Nếu bạn đi ô tô từ quốc lộ 1A, từ đỉnh Đèo Ngang đi về hướng Nam khoảng 2 km rồi rẽ trái vào đường mòn 500 m sẽ đến.
Ngôi đền nằm dưới chân đèo Ngang nên địa hình khá bằng phẳng, du khách dễ dàng tham quan.
3.2. Phủ Tây Hồ thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh ở Hà Nội:
Lịch sử và kiến trúc:
Phủ Tây Hồ được bao bọc bởi một bán đảo lớn giữa Hồ Tây thuộc xã Quảng An, quận Tây Hồ, Hà Nội. Trong những lần giáng thế, Thánh Mẫu luôn lấy hiệu là Liễu Hạnh, đi khắp nơi du ngoạn, giao lưu, gặp gỡ nhiều người. Một trong số đó là vị mặc khách ở Phùng Khắc Khoang Phủ Hồ Tây. Tại đây nhân dân đã lập miếu thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh ở Phủ Hồ Tây để kỷ niệm ngày giáng thế này của bà.
Theo truyền thuyết, phủ được xây dựng vào khoảng thế kỷ 17. Ngày nay, Phủ Tây Hồ thường được tổ chức vào hai ngày lễ quan trọng là ngày mồng 3 tháng 3 và ngày 13 tháng 8 âm lịch.
Kiến trúc phủ Tây Hồ gồm 3 cổng tam quan, kiến trúc ba nếp (Tam tòa thánh mẫu. Qua tam quan là phương đình, nhà tiền tế và hậu cung. Kế bên cạnh là điện Sơn Trang cao 3 tầng. Di tích lịch sử Phủ Tây Hồ bây giờ vẫn còn lưu giữ nhiều di vật mang giá trị văn hoá, lịch sử phong phú.
Cách di chuyển:
Cách di chuyển đến Phủ Tây Hồ thuộc địa bàn thành phố Hà Nội, người tỉnh khác có thể đến đây bằng xe ô tô hoặc máy bay tới sân bay Nội Bài. Đền nằm cách trung tâm của thủ đô 4 km. Ngoài ra còn có thể sử dụng xe buýt số 31,33 và 55 để di chuyển.
3.3. Đền Phủ Dầy thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh ở Nam Định:
Lịch sử và kiến trúc:
Phủ Dầy (hay Phủ Giầy hay Phủ Giày) là một quần thể di tích tâm linh đạo Mẫu nằm ở xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Chùa được xây dựng vào năm Cảnh Trì nhà Lê (1663-1671).
Kiến trúc độc đáo nhất phải kể đến đó là ngôi đền thờ Chúa Liễu Hạnh ngay cạnh chợ Viềng. Sau khi được sắc phong với hiệu ” Liễu Hạnh Công chúa” thì ngôi đền được đổi tên là “Phủ Dầy”. “Phủ” là nơi ở của thánh mẫu và các vương công. Quần thể Di tích Phủ Dầy có hơn 20 công trình kiến trúc độc đáo, nhiều bộ phận gắn liền với cuộc đời Thánh Mẫu Liễu Hạnh như: Phủ Vân Cát, Phủ Tiên Hương và Lăng Chúa Liễu.
Phủ Tiên Hương (phủ chính) là công trình được xây dựng vào thời Cảnh Trị nhà Lê (1663-1671) với kiến trúc độc đáo, tuy đã nhiều lần được tu sửa, tôn tạo. Phủ Vân Cát rộng gần 1ha, nằm về phía Tây Bắc, là nơi thờ Đức Thánh Mẫu. Lăng Chùa Liễu được xây dựng muộn hơn (năm 1938) và nằm cạnh phủ chính.
Cách di chuyển:
Khoảng cách từ Hà Nội đến Phủ Dầy Nam Định là 90 km, du khách có thể đi ô tô hoặc xe máy đều rất thuận tiện. Đi quốc lộ 1A đến Phủ Lý (Hà Nam), đến trạm thu phí rẽ trái khoảng 10 km. Từ Chợ Lợn Nam Định, đến ngã tư Cầu Hola, đường 56, rẽ phải là đến xã Kim Thái, quê hương của Phủ Dầy.
4. Trang phục Mẫu Liễu Hạnh cần chuẩn bị:
Giá Thánh Mẫu Liễu Hạnh với trang phục màu đỏ, bên trên thêu rồng uốn lượn. Về cơ bản một bộ giá sẽ bao gồm:
‐ 1 khăn ren Chúa
‐ 1 bộ trang phục ren Chúa
5. Văn khấn lễ Thánh Mẫu Liễu Hạnh:
Nam mô A Di Đà Phật! Nam mô A Di Đà Phật! Nam mô A Di Đà Phật!
Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư phật, Chư Phật mười phương.
Hương tử chúng con kính lạy:
Thánh mẫu Liễu Hạnh, Chế thắng Hoà Diệu, Đại vương “Tối linh chí linh”
Mẫu Đệ Nhất Thiên Tiên!
Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn!
Mẫu Đệ Tam Thuỷ Cung!
Con là….
Hiện ngụ tại…
Hôm nay là ngày….
Tại:…
Con thành kính dâng lên lễ vật Cung thỉnh Tam Tòa Thánh Mẫu, vua cha Ngọc Hoàng, Tam phủ Công Đồng, Tứ Phủ Vạn Linh, Hội Đồng Các Quan, Bát bộ Sơn Trang, Thập Nhị Quan Hoàng,Thập Nhị Chầu Cô, Thập Nhị Quan Của, Ngũ Lôi Thiên Tướng, Ngũ Hổ Thần Quan, Thanh Bạch Xà Thần Linh chấp kỳ lễ bạc, chứng giám cho con được hưởng.
Gia quyến bình an, tài lộc thịnh vượng, vạn sự cát tường…
Chúng con xin thành tâm kính lễ,
Cúi Xin các ngài chứng giám.
Nam mô A Di Đà Phật! Nam mô A Di Đà Phật! Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật! Nam mô A Di Đà Phật! Nam mô A Di Đà Phật!