Xe ưu tiên là những loại phương tiện thi hành công vụ, phương tiện này được hưởng nhiều đặc quyền, ví dụ như xe cứu thương đang trong quá trình thực hiện nhiệm vụ cấp cứu, xe chữa cháy trong quá trình đi làm nhiệm vụ ... Vậy theo quy định của pháp luật hiện nay thì tài xế lái xe ưu tiên gây tai nạn bị xử lý như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Tài xế xe ưu tiên gây tai nạn xử lý như thế nào?
Trước hết, căn cứ theo quy định tại Điều 22 của Văn bản hợp nhất Luật giao thông đường bộ năm 2019 có quy định về quyền ưu tiên của một số loại xe. Theo đó, những phương tiện sau đây sẽ được hưởng quyền ưu tiên đi trước xe khác khi đi qua đoạn đường giao nhau từ bất kỳ hướng nào theo thứ tự như sau:
– Phương tiện xe chữa cháy trong quá trình đi làm nhiệm vụ;
– Phương tiện xe quân sự, phương tiện xe công an trong quá trình thực hiện nhiệm vụ khẩn cấp, đoàn xe đó có xe cảnh sát dẫn đường;
– Phương tiện xe cứu thương đang trong quá trình thực hiện nhiệm vụ cấp cứu;
– Đoàn xe tang;
– Xe hộ đê, các loại phương tiện nhằm nhiệm vụ khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, phương tiện đi làm nhiệm vụ trong tình trạng khẩn cấp theo quy định của pháp luật.
– Đồng thời, khi có tín hiệu của phương tiện được quyền ưu tiên, người tham gia giao thông đường bộ cần phải nhanh chóng giảm tốc độ, đứng sát vào lề đường bên phải để nhường đường cho phương tiện ưu tiên, không được phép thực hiện hành vi cản trở phương tiện được quyền ưu tiên.
Đồng thời, căn cứ theo quy định tại Điều 4 của Văn bản hợp nhất luật giao thông đường bộ năm 2019 có quy định về việc, người tham gia giao thông đường bộ cần phải có ý thức tự giác, nghiêm chỉnh chấp hành đầy đủ quy tắc an toàn giao thông, có thái độ văn minh lịch sự, giữ gìn an toàn cho mình và cho người khác. Chủ phương tiện và người điều khiển phương tiện cần phải có trách nhiệm và nghĩa vụ trước pháp luật về vấn đề bảo đảm an toàn của phương tiện tham gia giao thông đường bộ.
Vì vậy, tài xế xe ưu tiên được hưởng một số đặc quyền nhất định, tuy nhiên gây ra tai nạn tùy vào từng trường hợp khác nhau vẫn bị xử lý theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp tài xế lái xe ưu tiên gây tai nạn giao thông thì cần phải xem xét các trường hợp như sau:
– Trong trường hợp người tham gia giao thông không đảm bảo quyền ưu tiên đối với phương tiện có quyền ưu tiên đang trong quá trình thực hiện nhiệm vụ như không nhuộm đường cho phương tiện ưu tiên đã phát tín hiệu đèn báo, chạy quá tốc độ … thì người tham gia giao thông đường bộ sẽ tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình;
– Trong trường hợp phương tiện có quyền ưu tiên thực hiện hành vi vi phạm quy định của pháp luật như: Đang trong quá trình làm nhiệm vụ tuy nhiên không có tín hiệu đèn báo, cố tình không chú ý quan sát an toàn giao thông, không đang trong quá trình thực hiện nhiệm vụ tuy nhiên vẫn đi vào đường ngược chiều, phóng nhanh … Trong trường hợp này thì tài xế lái xe ưu tiên khi gây ra tai nạn sẽ chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Bao gồm bồi thường thiệt hại đối với phần thiệt hại gây ra trên thực tế đối với người bị tai nạn, xử phạt vi phạm hành chính hoặc thậm chí truy cứu trách nhiệm hình sự khi gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng (chết người, thương tích cơ thể từ 61% trở lên, thiệt hại tài sản từ 100.000.000 trở lên …).
2. Tài xế xe ưu tiên gây tai nạn phải có trách nhiệm bồi thường dân sự như thế nào?
Căn cứ theo quy định tại Điều 584 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định:
– Người nào có hành vi xâm phạm đến tính mạng sức khỏe, xâm phạm đến danh dự nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền lợi hợp pháp của người khác mà gây ra thiệt hại trên thực tế thì cần phải có trách nhiệm bồi thường, ngoại trừ trường hợp bộ luật dân sự hoặc các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan có quy định khác;
– Người gây ra thiệt hại sẽ không cần phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại đó xảy ra do sự kiện bất khả kháng hoặc thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, ngoại trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật liên quan có quy định khác;
– Trường hợp tài sản gây ra thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản đó cần phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại, ngoại trừ trường hợp thiệt hại xảy ra do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại.
Theo đó thì có thể nói, nếu trong trường hợp tài xế xe ưu tiên gây tai nạn do vi phạm quy định an toàn giao thông thì phải có trách nhiệm bồi thường. Tuy nhiên, nếu tai nạn giao thông xảy ra do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của người bị hại thì tài xế lái xe ưu tiên sẽ không cần phải chịu trách nhiệm bồi thường. Và trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người gây ra tai nạn giao thông được xác định như sau:
(1) Bồi thường thiệt hại về sức khỏe, tinh thần bị xâm phạm. Căn cứ theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm. Cụ thể:
– Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm sẽ bao gồm các thiệt hại sau:
+ Chi phí hợp lý phục vụ cho hoạt động cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe, phục hồi chức năng bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại;
+ Thu nhập thực tế bị mất hoặc thu nhập bị giảm sút của người bị thiệt hại, nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và cũng không thể xác định được cụ thể thì sẽ áp dụng theo mức thu nhập bình quân của lao động cùng loại trên thị trường lao động;
+ Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong suốt thời gian điều trị, nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại trên thực tế sẽ bao gồm cả chi phí hợp lý phục vụ cho hoạt động chăm sóc người bị thiệt hại.
– Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm sẽ phải có trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người bị thiệt hại phải gánh chịu. Về mức bồi thường, mức bồi thường và bù đắp tổn thất về tinh thần sẽ do các bên tự thỏa thuận với nhau, trong trường hợp các bên không có thoả thuận thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm sẽ không vượt quá 50 lần mức lương cơ sở do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định. Đồng thời, trường hợp bị thiệt hại dẫn tới hiện tượng mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại sẽ được xác định là một ngày lương tối thiểu vùng tại nơi người bị thiệt hại cư trú cho một ngày chăm sóc người bị thiệt hại đó. Trong trường hợp người bị thiệt hại có thu nhập ổn định từ tiền lương, thu nhập ổn định từ tiền công thì sẽ được xác định theo mức tiền lương, mức tiền công của người bị thiệt hại trong khoảng thời gian tiền lương/tiền công của người bị thiệt hại bị mất hoặc bị giảm sút.
(2) Bồi thường do tài sản bị xâm phạm. Căn cứ theo quy định tại Điều 589 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về thiệt hại do tài sản bị xâm phạm. Theo đó:
– Tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc tài sản bị hư hỏng;
– Lợi ích gắn liền với việc sử dụng tài sản, khai thác tài sản bị mất, bị giảm sút;
– Chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục, hạn chế thiệt hại.
Theo đó, tài xế xe ưu tiên gây tai nạn cần phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về sức khỏe tinh thần của người bị thiệt hại phải bồi thường và khắc phục hư hỏng về tài sản bị thiệt hại như quán bán hàng, xe máy, xe ô tô …
3. Tài xế xe ưu tiên gây tai nạn có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Tài xế xe ưu tiên gây tai nạn hoàn toàn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 260 của Bộ luật Hình sự năm 2015 khi gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, vi phạm quy định về qna toàn giao thông đường bộ. Căn cứ theo quy định tại Điều 260 của Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định về tội vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ. Khung hình phạt được xác định cụ thể như sau:
+ Khung cơ bản: Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm;
+ Khung thứ hai: Phạt tù từ 03 năm đến 10 năm;
+ Khung thứ ba: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
Theo đó thì có thể nói, tài xế xe ưu tiên gây tai nạn ngoài việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, thì còn có thể phải chịu hình phạt tù, tức là chịu trách nhiệm hình sự nếu gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm đến khách thể do bộ luật hình sự bảo vệ, nếu hành vi đó có đầy đủ yếu tố cấu thành tội phạm, vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ căn cứ tại Điều 260 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Văn bản hợp nhất 15/VBHN-VPQH 2019 Luật Giao thông đường bộ;
– Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017);
– Bộ luật Dân sự năm 2015.
THAM KHẢO THÊM: