Tài liệu học tập chính trị cho học viên bồi dưỡng kết nạp Đảng

Để có thể trở thành thành viên của Đảng chúng ta phải đáp ứng đầy đủ những phẩm chất, điều kiện nhất định. Nhưng một điểu bạn chắc chắn phải hiểu rõ trước khi có mong muốn trở thành một người Đảng viên đó chính là phải nắm được tiến trình ra đời của Đảng. Do đó, tài liệu sau đây sẽ cung cấp cho bạn những thông tin về vấn đề này. 

1.1. Trước khi thực dân Pháp xâm lược:

Trước khi thực dân Pháp xâm lược nước ta hoàn toàn là một nước có độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Cuối triều đại trị vì của Nhà Nguyễn, nền nông nghiệp nước ta trở nên sa sút trầm trọng, nhiều cuộc khẩn hoang được tổ chức khá quy mô, tuy nhiên cuối cùng đất đai khai khẩn được lại rơi vào tay địa chủ. Công thương nghiệp bị đình đốn; xu hướng độc quyền công thương đã hạn chế sự phát triển của sản xuất và thương mại. Chính sách "bế quan tỏa cảng" của nhà Nguyễn khiến cho nước ta bị cô lập với thế giới bên ngoài. Quân sự lạc hậu, chính sách đối ngoại có những sai lầm, nhất là việc "cấm đạo", đuổi giáo sĩ phương Tây, làm rạn nứt khối đoàn kết dân tộc, gây bất lợi cho sự nghiệp kháng chiến sau này. Đất nước lúc bấy giờ vô cùng nghèo nàn, lạc hậu và dường như đang đứng ngoài sự phát triển của thế giới.

1.2. Sau khi bị thực dân Pháp xâm lược:

Từ năm 1858, thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất ở đất nước ta với tuyên bố hào hùng rằng chúng đang ra tay bảo vệ, dìu dắt “con dân của mẫu quốc”; cũng từ đây chúng bắt đầu từng bước thiết lập chế độ thống trị tàn bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân, bòn rút cùng cực sức người, sức của của nhân dân ta. 

Về chính trị, chúng trực tiếp nắm giữ các chức vụ then chốt trong bộ máy nhà nước, thực hiện chính sách cai trị chuyên chế. Địa chủ phong kiến cấu kết với thực dân đã không ngừng đàn áp bóc lột dân nhân ta một cách dã man, tàn bạo

Về kinh tế, thực dân Pháp thực hiện chính sách độc quyền, kìm hãm sự phát triển kinh tế độc lập của nước ta. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, vô nhân đạo, kể cả duy trì bóc lột kiểu phong kiến... đẩy nhân dân ta vào cảnh bần cùng, làm cho nền kinh tế bị què quặt, lệ thuộc vào kinh tế Pháp, để lại hậu quả nghiêm trọng, kéo dài.

Về văn hóa - xã hội, chúng thi hành chính sách ngu dân, khuyến khích văn hoá nô dịch, sùng Pháp, nhằm kìm hãm nhân dân ta trong vòng tăm tối, dốt nát, lạc hậu, để dễ bề cai trị nhân dân ta. 

Trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất này đã dẫn đến sự biến đổi lớn về xã hội. Đó là sự ra đời của những tầng lớp, giai cấp mới - giai cấp công nhân, tầng lớp tư sản và trí thức. Nước ta lúc bấy giờ từ một nước phong kiến chuyển sang chế độ thực dân nửa phong kiến. Từ đó, những mâu thuẫn mới đã được  hình thành. Ngoài mâu thuẫn giai cấp là một mâu thuẫn cơ bản đã tồn tại từ rất lâu giữa tầng lớp nhân dân lao động với giai cấp bóc lột thì xã hội nước ta lúc bấy giờ còn hình thành thêm một mâu thuẫn dân tộc - mâu thuẫn giữa dân  tộc Việt Nam với bọn thực dân Pháp. Mâu thuẫn này dù xuất hiện sau nhưng gay gắt nhất, đòi hỏi cần được giải quyết ngay. Chính vì vậy hàng loạt các phong trào đấu tranh đã nổ ra trong suốt những năm cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX. 

1.2.1. Phong trào đấu tranh theo hệ tư tưởng phong kiến: 

Phong trào Cần Vương (1885 - 1896) do vua Hàm Nghi và cụ Tôn Thất Thuyết lãnh đạo. Phong trào hoạt động phát triển mạnh mẽ chủ yếu tại Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ với sự tham gia đông đảo quần chúng nhân dân từ các văn thân, sĩ phu đến nông dân và các dân tộc ít người. Phong trào Cần Vương là phong trào theo khuynh hướng cứu nước phong kiến, mục tiêu đấu tranh của phong trào là đánh Pháp giành lại độc lập, giúp vua lập lại chế độ phong kiến. Tuy nhiên, phong trào này đã thất bại, sự thất bại của phong trào Cần Vương cũng đồng nghĩa với sự thất bại của khuynh hướng cứu nước phong kiến.

Khởi nghĩa nông dân Yên Thế (1885 - 1913) là cuộc khởi nghĩa nông dân lớn nhất, dài nhất diễn ra vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX do Hoàng Hoa Thám và Lương Văn Nắm lãnh đạo, diễn ra tại Bắc Giang. Khởi nghĩa tiêu biểu cho tinh thần bất khuất của nhân dân ta trong phong trào chống Pháp cuối thế kỷ XIX. Cuộc khởi nghĩa diễn ra bốn giai đoạn song nghĩa quân đều rất anh dũng, sẵn sàng hi sinh, được sự ủng hộ đông đảo của nhân dân nên ngày càng lớn mạnh. Khởi nghĩa diễn ra sâu rộng, dưới nhiều hình thức đấu tranh khác nhau đã đánh thắng Pháp nhiều trận và gây nhiều khó khăn thiệt hại nhưng đến năm 1913 thì bị thực dân Pháp tập trung lực lượng lớn càn quét và dập tắt, do đó khởi nghĩa đã thất bại.

1.2.2. phong trào đấu tranh dân chủ tư sản

- Phan Bội Châu và phong trào Đông Du: Với quan điểm “nợ máu chỉ có thể trả bằng máu”, ngay từ đầu Phan Bội Châu đã kiên trì giành độc lập bằng con đường bạo lực vì vậy ngay từ đầu thế kỷ XX ông đã chuẩn bị công cuộc bạo động đánh Pháp. Phan Bội Châu chủ trương dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài, chủ yếu là Nhật Bản, để đánh Pháp giành độc lập dân tộc, thiết lập một nhà nước theo mô hình quân chủ lập hiến của Nhật. Ông tổ chức phong trào Đông Du (1906-1908), tức phong trào đi du học ở phương Tây và ông cho rằng nên cầu viện Nhật Bản là nước đồng Văn, đồng chủng. Những người du học sinh được đào tạo về văn hoá và quân sự cần thiết cho công cuộc đánh Pháp cứu nước và kiến thiết đất nước. Phong trào đông du ngày càng lớn mạnh, thực dân Pháp một mặt tiến hành khủng bố, mặt khác tiến hành cấu kết với Nhật trục xuất những người yêu nước Việt Nam ra khỏi nước Nhật trong đó có cả Phan Bội Châu. Ông về Trung Quốc lập ra Việt Nam quang phục hội (1912) với ý định tập hợp lực lượng rồi kéo quân về nước võ trang bạo động đánh Pháp, giải phóng dân tộc nhưng cuối cùng cũng thất bại.

- Phan Châu Trinh và phong trào Duy Tân (1906-1908):Trong lúc phong trào Đông Du những hoạt động của Duy Tân Hội diễn ra sôi nổi thì Phan Châu Trinh và một số sĩ phu yêu nước chủ trương tiến hành một phong trào Duy Tân. Ông chủ trương tạm thời dựa vào Pháp để đánh đổ phong kiến, giành lại quyền lực cho nhân dân, sau đó sẽ đánh đổ đế quốc, giành độc lập dân tộc nhưng cuối cùng cũng thất bại.

Điểm chung của các cuộc đấu tranh này đều là thất bại bởi con đường của các cuộc đấu tranh này chưa phù hợp với hiện thực cách mạng Việt Nam. Đồng thời chúng nổ ra một cách lẻ tẻ, chưa có sự thống nhất lãnh đạo nên dễ dàng bị đàn áp. Sau những thất bại ấy, đất nước ta đang đứng trước tình trạng khủng hoảng trầm trọng về đường lối cứu nước. Nó trở thành nhu cầu bức thiết cần giải quyết của chúng ta lúc bấy giờ.

2. Những hoạt động của Nguyễn Quốc trên hành trình tìm đường cứu nước và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam: 

2.1. Hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc: 

Nguyễn Ái Quốc sinh ra trong một gia đình nhà nho có lòng yêu nước. Ngay từ khi còn nhỏ Người đã chứng kiến được cảnh nước mất nhà tan, cuộc sống của con dân bị chà đạp. Chính vì vậy chàng trai Nguyễn Ái Quốc năm nào đã nuôi trong mình chí lớn, quyết ra đi tìm đường cứu nước. 

Ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành rời bến Nhà Rồng trên con tàu Đô đốc Latouche-Tréville lên đường sang Pháp với tên gọi Văn Ba. Người đã qua nhiều nơi trên thế giới, vừa lao động, vừa học tập, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm các cuộc cách mạng tư sản điển hình (Pháp, Mỹ), tích cực tham gia hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp.

Từ năm 1911 đến năm 1917, sau nhiều năm bôn ba ở hải ngoại, Người đã nhận ra rằng đâu đâu cũng có bất công, đâu đâu bọn đế quốc cũng chà đạp áp bức người dân lao động đến cùng cực. 

Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công đã có ảnh hưởng không nhỏ tới tư tưởng của Người lúc bấy giờ. Người vô cùng ngưỡng mộ cuộc cách mạng đó, kính phục V.I.Lênin và đã tham gia nhiều hoạt động ủng hộ, bảo vệ cách mạng Nga; tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Những hoạt động cách mạng phong phú đó đã giúp Người từng bước rút ra những bài học quý báu và bổ ích cho sự lựa chọn con đường cách mạng của mình.

Năm 1919, Người gửi bản ưu sách của nhân dân An Nam đến hội nghị Véc-sai để đòi những quyền cơ bản cho người dân nước mình nhưng đã bị từ chối. Chính điều đó đã làm Người hiểu rõ hơn bản chất của bọn đế quốc thực dân lúc bấy giờ và chắc chắn hơn về con đường cách mạng để có thể giải phóng dân tộc

Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin. Luận cương như một ánh sáng làm bừng tỉnh phương hướng trong con đường giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc và tìm ra hướng đi đúng đắn cho dân tộc mình. Đó là con đường cách mạng vô sản. 

Đối với Nguyễn Ái Quốc, đây là bước ngoặt từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản, từ một chiến sĩ giải phóng dân tộc trở thành một chiến sĩ cộng sản quốc tế. Sự kiện đó cũng đánh dấu bước ngoặt mở đường thắng lợi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào nước ta, tìm ra con đường đúng đắn giải phóng dân tộc Việt Nam.

Trở thành chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia hoạt động trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào cách mạng thuộc địa; nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam qua các báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân và sau này là tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925).

Sau một thời gian ngắn tham gia học tập ở Liên Xô và hoạt động trong Quốc tế Cộng sản, tháng 11-1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại đây, Người sáng lập và trực tiếp huấn luyện Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, sáng lập và viết bài cho báo Thanh niên, xuất bản tác phẩm Đường Kách mệnh (1927)... nhằm tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước. Người tổ chức đào tạo bồi dưỡng cán bộ cốt cán, tiếp tục chuẩn bị về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng.

2.2. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam: 

- Ngày 17-6-1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Bắc Kỳ.

- Ngày 25-7-1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ.

- Tháng 9-1929, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ.

Trong giai đoạn này, có 3 tổ chức được thành lập tiêu biểu nhất như trên. Tuy nhiên mỗi tổ chức lại có những mục tiêu, chủ trương chính sách riêng nên không khỏi dẫn tới việc tranh giành ảnh hưởng giữa các tổ chức với nhau dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết nhất lúc này chính là phải có một chính đảng duy nhất để lãnh đạo phong phòng cách mạng. Nhận thức được điều đó, từ ngày 06-01 đến ngày 07-02-1930, Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt Quốc tế Cộng sản chủ trì cuộc hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại bán đảo Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc). Từ đây Đảng cộng sản Việt Nam ra đời thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và lấy ngày 3/2 làm ngày kỉ niệm thành lập Đảng 

Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như là Đại hội thành lập Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Ái Quốc.

3. Ý nghĩa của việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam:

Sự ra đời của Đảng là một sự kiện lớn, một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt thời kì khủng hoảng về đường lối cứu nước. Tại đây, Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo được Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua đã khẳng định con đường cách mạng của dân tộc: cách mạng Việt Nam phải tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con đường cách mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn cũng đã chứng tỏ, khẳng định giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng, xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Chính đường lối này đã được khẳng định tính đúng đắn trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc về sau (cuộc kháng chiến chông Pháp, Mĩ) 

    5 / 5 ( 1 bình chọn )