Tỷ lệ giải quyết các vụ án tách được giải quyết nhanh chóng và chính xác, thủ tục tiến hành tố tụng cũng được quy định cụ thể và rõ ràng, giúp đảm bảo được quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Nhiều vụ án được rút gọn, nhập hoặc tách ra, giúp cho quá trình giải quyết vụ án tiết kiệm thời gian, đáp ứng đúng nhu cầu cần thiết.
Mục lục bài viết
1. Tách vụ án là gì?
Hiện nay pháp luật nước ta chưa có văn bản nào quy định về khái niệm tách vụ án là gì. Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau thì tách vụ án được hiểu là một trong các thủ tục pháp lý, nhằm mục đích rút gọn thời gian, chi phí và thuận tiện cho quá trình giải quyết các vụ án có nội dung liên quan.
Như vậy, tách vụ án được thực hiện khi cơ quan có thẩm quyền xét thấy trong một vụ án xuất hiện nhiều tình tiết, sự việc hay quan hệ pháp luật khác nhau cần phải tách ra để giải quyết thành những vụ án khác nhau nhưng mà vẫn đảm bảo đúng pháp luật và không ảnh hưởng tới kết quả giải quyết các quan hệ pháp luật đó.
- Tách vụ án: Split the case
- Hình sự: Criminal
- Dân sự: Civil
Separation of a case is performed when the competent authority finds that many details, facts or legal relations appear in a case that need to be separated to resolve into different cases but still ensure the compliance with the law and do not affect the settlement results of those legal relations.
2. Quy định về việc nhập hoặc tách vụ án hình sự:
“Điều 170. Nhập hoặc tách vụ án hình sự để tiến hành điều tra
1. Cơ quan điều tra có thể nhập để tiến hành điều tra theo thẩm quyền trong cùng một vụ án khi thuộc một trong các trường hợp:
a) Bị can phạm nhiều tội;
b) Bị can phạm tội nhiều lần;
c) Nhiều bị can cùng thực hiện một tội phạm hoặc cùng với bị can còn có những người khác che giấu tội phạm hoặc không tố giác tội phạm, tiêu thụ tài sản do bị can phạm tội mà có.
2. Cơ quan điều tra chỉ được tách vụ án trong trường hợp cần thiết khi không thể hoàn thành sớm việc điều tra đối với tất cả các tội phạm và nếu việc tách đó không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện của vụ án.
3. Quyết định nhập hoặc tách vụ án phải gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định. Trường hợp không nhất trí với quyết định nhập hoặc tách vụ án của Cơ quan điều tra thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ và nêu rõ lý do.”
Theo pháp luật hiện nay, nhập vụ án hình sự sẽ được thực hiện khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Bị can phạm tội nhiều lần;
Đây là quy định được áp dụng khi Bộ luật hình sự 2015 có hiệu lực. Trường hợp này áp dụng khi một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội. Khác với trường hợp quy định phạm tội một lần, trường hợp này bị can đã thực hiện nhiều hành vi, các hành vi này đều cấu thành tội phạm nhưng thuộc cùng một tội danh.
- Bị can phạm nhiều tội
Đây là trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội khác nhau và mỗi hành vi này đã cấu thành nên tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự. Do đó, không cần thiết phải tiến hành nhiều thủ tục tố tụng để giải quyết các tội phạm do cùng một người thực hiện.
- Nhiều bị can cùng thực hiện một tội phạm hoặc cùng với bị can còn có những người khác che giấu tội phạm hoặc không tố giác tội phạm, tiêu thụ tài sản do bị can phạm tội mà có.
Đây là quy định vừa có tính chất kế thừa, vừa có tính chất bổ sung cái mới. Thực tế cho thấy, tội phạm xảy ra trên thực tế rất phong phú, các bị can không chi thực hiện tội phạm một mình (phạm tội đơn lẻ) mà còn thực hiện tội phạm cùng với những người khác (đồng phạm).
Khác với quy định về nhập vụ án, kĩ thuật lập pháp trong việc quy định về tách vụ án cho thấy quan điểm của nhà làm luật về vấn đề này chỉ được tách vụ án khi xét thấy thật sự cần thiết vì không thể hoàn thành sớm việc điều tra đối với tất cả các tội phạm và nếu việc tách đó không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện của vụ án.
Theo đó, điều kiện để tách vụ án vẫn được kế thừa Bộ luật Tố tụng hình sự cũ. Một vụ án chỉ được tách khi thỏa mãn cả hai điều kiện:
– Khi không thể hoàn thành sớm việc điều tra đối với tất cả các tội phạm;
– Việc tách không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện cùa vụ án.
3. Về thủ tục nhập, tách vụ án hình sự để điều tra:
Về thủ tục, cơ quan có thẩm quyền phải ra quyết định nhập hoặc tách vụ án. Quyết định nhập hoặc tách vụ án phải gửi cho Viện kiểm sát trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định để kiểm sát. Viện kiểm sát có quyền hủy bỏ quyết định nhập hoặc tách vụ án của Cơ quan điều tra nhưng phải nêu rõ lí do về việc hủy quyết định đó.
Ví dụ về tách vụ án hình sự để điều tra
Ví dụ : A, B và C là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định và nơi cư trú rõ ràng cùng thực hiện hành vi phạm tội. Cơ quan điều tra đã khởi tố cả ba đối tượng trên về cùng một tội danh, trong đó A, B bị tạm giam còn C thì bỏ trốn (đã có lệnh truy nã). Khi hết thời hạn tạm giam đối với A và B (bao gồm cả thời hạn đã gia hạn), thì thời hạn điều tra vẫn còn nhưng không xác định được C đang ở đâu. Do không thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác biện pháp tạm giam đối với A và B, nên khi hết thời hạn tạm giam đối với A và B, vụ án trên cần được tách ra để đảm bảo việc truy tố đối với A và B. Đồng thời, sau khi hết thời hạn điều tra vụ án mà vẫn không xác định được C đang ở đâu thì Cơ quan điều tra ra quyết định tạm đình chỉ vụ án theo quy định.
4. Ý nghĩa của tách vụ án:
Tách vụ án sẽ nhằm mục đích đảm bảo cho các vụ việc liên quan được giải quyết nhanh chóng, chính xác bởi lẽ những quan hệ pháp luật không có liên quan với nhau hoặc liên quan không nhiều nên tách ra riêng biệt để được xét xử đúng thẩm quyền, thời gian tiến hành tố tụng có thể nhiều hơn so với việc nhập vụ án nhưng đổi lại việc quyết định tách vụ án này sẽ giúp cho các bên có liên quan bảo vệ được quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức.
Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về tách vụ án là quy định mở, hướng đến khuyến khích các cơ quan tiến hành tố tụng tách vụ án để giải quyết khi xét thấy cần thiết.
5. Một số quy định liên quan hiện nay:
Thứ nhất, nguyên tắc xử lý
Một, đối với người phạm tội
- Mọi hành vi phạm tội do người thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật;
- Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội;
- Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội;
- Nghiêm trị người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
- Khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập công chuộc tội, tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra;
- Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát, giáo dục;
- Đối với người bị phạt tù thì buộc họ phải chấp hành hình phạt tại các cơ sở giam giữ, phải lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội; nếu họ có đủ điều kiện do Bộ luật này quy định, thì có thể được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện;
- Người đã chấp hành xong hình phạt được tạo điều kiện làm ăn, sinh sống lương thiện, hòa nhập với cộng đồng, khi có đủ điều kiện do luật định thì được xóa án tích.
Hai, đối với pháp nhân thương mại phạm tội:
- Mọi hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật;
- Mọi pháp nhân thương mại phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế;
- Nghiêm trị pháp nhân thương mại phạm tội dùng thủ đoạn tinh vi, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng;
- Khoan hồng đối với pháp nhân thương mại tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại gây ra, chủ động ngăn chặn hoặc khắc phục hậu quả xảy ra.
Thứ hai, ủy thác điều tra
- Khi cần thiết, Cơ quan điều tra ủy thác cho Cơ quan điều tra khác tiến hành một số hoạt động điều tra. Quyết định ủy thác điều tra phải ghi rõ yêu cầu và gửi cho Cơ quan điều tra được ủy thác, Viện kiểm sát cùng cấp với Cơ quan điều tra được ủy thác.
- Cơ quan điều tra được ủy thác phải thực hiện đầy đủ những việc được ủy thác trong thời hạn mà Cơ quan điều tra ủy thác yêu cầu và chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả thực hiện ủy thác điều tra. Trường hợp không thực hiện được việc ủy thác thì phải có ngay văn bản nêu rõ lý do gửi Cơ quan điều tra đã ủy thác.
- Viện kiểm sát cùng cấp với Cơ quan điều tra được ủy thác có trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tiến hành hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra được ủy thác và phải chuyển ngay kết quả thực hành quyền công tố và kiểm sát việc ủy thác điều tra cho Viện kiểm sát đã ủy thác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra.
Thứ ba, thời hạn điều tra
- Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra.
- Trường hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn điều tra, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn điều tra.
Các văn bản pháp luật có liên quan đến bài viết:
- Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;
- Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017.