Chuyện người con gái Nam Xương là một trong những tác phẩm về chủ đề người phụ nữ trong xã hội xưa, luôn bị đối xử bất công với những định kiến và sự kìm kẹp. Do vậy, bài viết dưới đây sẽ hướng dẫn suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương, mời các bạn tham khảo.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương:
1.1. Mở bài:
– Giới thiệu tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” và tác giả Nguyễn Dữ.
– Giới thiệu về nhân vật Vũ Nương và vấn đề nghị luận.
1.2. Thân bài:
a. Vũ Nương là người phụ nữ đẹp người, đẹp nết
Người vợ dịu dàng, hiền lành và khuôn phép: chồng đi xa vẫn một lòng chung thủy, thương nhớ chồng, một mình nuôi con…
Người con dâu hiếu thảo: chăm mẹ chồng lúc chồng đi vắng, đau yếu, lo việc ma chay, tế lễ chu đáo.
b. Nỗi đau, oan khuất của nàng:
Người chồng vì tính đa nghi và lời kể của con trẻ đã nghi oan cho nàng.
Nàng đau khổ, khóc lóc bày tỏ nỗi lòng với chồng nhưng chồng vẫn không nghe còn mắng nhiếc, đánh đuổi nàng đi.
Không thể thanh minh, nàng đành tìm tới cái chết để rửa tội cho chính mình.
c. Khi chết Vũ Nương vẫn nhớ quê hương, có ngày tất phải tìm về
Tìm về để giãi bày nỗi oan với chồng, với mọi người, nhưng chính bản thân nàng không thể trở nhân gian được
d. Nhận xét về nghệ thuật:
Khai thác vốn văn học dân gian và yếu tố sáng tạo về nghệ thuật…
1.3. Kết bài:
– Khái quát về hình tượng nhân vật Vũ Nương tiêu biểu cho số phận bi thảm của người phụ nữ trong xã hội cũ.
– Liên hệ với hình tượng người phụ nữ trong xã hội hiện đại.
2. Sơ đồ tư duy hướng dẫn phân tích:
3. Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương:
Nguyễn Dữ là một nhà văn sống ở thế kỷ XVI, quê gốc tại huyện Trường Tân, nay là Thanh Miện – Hải Dương. Ông là học trò của danh nhân văn học Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm và để lại những đóng góp vô cùng quan trọng cho nền văn học trung đại Việt Nam.
Trong số các tác phẩm của Nguyễn Dữ, có một tác phẩm được coi là điển hình là “Truyền kỳ Mạn Lục” với hai mươi câu chuyện nhỏ. Trong đó, chuyện người con gái Nam Xương (hay còn gọi là chuyện Vũ Nương) là câu chuyện thứ 16, bắt đầu từ truyện “vợ chàng Trương”. Nguyễn Dữ đã xây dựng hình tượng Vũ Nương với đầy đủ các phẩm chất tốt đẹp, tuy nhiên lại phải chịu nhiều oan khuất. Việc này cho thấy lòng thương cảm của Nguyễn Dữ đối với Vũ Nương, cũng như với những người khác có số phận hẩm hiu giống nàng.
Tác phẩm “Truyền kỳ Mạn Lục” của Nguyễn Dữ đã trở thành một tài liệu quan trọng để hiểu về văn hóa và tư tưởng của người Việt Nam thời kỳ đó. Ngoài ra, hình ảnh Vũ Nương trong câu chuyện cũng đã trở thành một biểu tượng văn hóa được yêu thích và trân trọng trong văn hóa dân gian Việt Nam.
Vũ Nương, tên thật là Vũ Thị Thiết, xuất thân từ một gia đình nghèo ở Nam Xương, Lý Nhân. Nàng không chỉ sở hữu nhan sắc tuyệt vời mà còn có đức hạnh đầy đủ. Trương Sinh, con nhà giàu, đã xin mẹ trăm lạng vàng để cưới nàng về.
Sự đức hạnh tuyệt vời của Vũ Nương được thể hiện rõ trong cách cô ứng xử với gia đình. Dù trong cuộc sống vợ chồng, nàng luôn cư xử đúng mực, nhường nhịn và biết giữ gìn khuôn phép. Dù chồng cô có nghi ngờ hay phòng ngừa quá mức, nhưng họ vẫn luôn hòa hợp bởi đức hạnh của Vũ Nương.
Mặc dù cuộc hôn nhân của họ không bắt đầu từ tình yêu và có dấu hiệu mua bán, nhưng gia đình luôn hạnh phúc bởi đức hạnh của nàng. Khi Trương Sinh phải đi lính, Vũ Nương đã rót rượu cho chồng và nói những lời tình cảm: “Anh đi chuyến này, em không mong muốn anh đeo ấn phong hầu hay mặc áo gấm hoa khi trở về quê cũ. Chỉ mong anh trở về với hai chữ ‘bình yên’, đó là đủ rồi.” Lời chia tay đó cho thấy nàng không mong đợi vinh quang, chỉ mong cho chồng của mình được bình an trở về. Đó là mong ước giản dị, bình thường của người vợ, người phụ nữ luôn mong cuộc sống gia đình sum vầy, hạnh phúc. Vũ Nương còn biết cảm thông trước nỗi vất vả, gian khổ mà người chồng phải chịu đựng khi đi ra chiến trường.
Tình trạng đó của Vũ Nương là tình trạng chung của nhiều người phụ nữ trong thời kỳ loạn lạc, khi chồng họ phải đi lính để bảo vệ đất nước. Những người vợ này luôn sống trong sự lo lắng, nhớ nhung và chờ đợi người chồng của mình trở về. Họ luôn mong muốn thời gian sẽ trôi nhanh để người chồng có thể sớm trở về, nhưng cũng đau đớn khi thấy thời gian trôi qua mà người chồng vẫn chưa trở về.
Mặc dù rất khó khăn, nhưng những người vợ này vẫn luôn cố gắng giữ vững tinh thần để chờ đợi người chồng trở về và tái lập cuộc sống gia đình. Những nỗ lực của họ được đền đáp khi người chồng trở về và gia đình được hàn gắn lại. Tình cảm và niềm tin của những người vợ này là một nguồn động lực vô giá để đưa đất nước qua khó khăn trong thời gian đó.
“Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong”
(Trích “Chinh phụ ngâm” – Đoàn Thị Điểm)
Vũ Nương không chỉ là một người vợ thủy chung mà còn là một người con dâu hiếu thảo. Khi chồng đi lính, nàng phải gánh vác mọi việc trong gia đình chồng. Trong xã hội, mối quan hệ mẹ chồng – nàng dâu rất khó dung hoà, nhưng Vũ Nương vẫn rất yêu quý, chăm sóc mẹ chồng như đối với cha mẹ đẻ của mình. Khi mẹ chồng ốm, nàng chăm sóc và khuyên lơn bằng lời ngọt ngào và cử chỉ ân cần, đáng trân trọng.
Đặc biệt, trước khi mẹ chồng qua đời, bà đã đánh giá cao công lao của Vũ Nương đối với gia đình. Sau khi mẹ chồng mất, nàng không ngừng thương xót và làm những việc ma chay tế lễ, lo liệu như cha mẹ ruột. Điều này thể hiện tình yêu thương và hiếu thảo của nàng đối với mẹ chồng, không chỉ vì trách nhiệm của người con dâu mà còn xuất phát từ lòng yêu thương sâu sắc.
Với tư cách là người vợ, người con, và người mẹ, Vũ Nương đều thể hiện đức hạnh của một người phụ nữ đảm đang, tháo vát, chung thủy và yêu thương chồng con. Nàng là mẫu người phụ nữ lí tưởng trong xã hội phong kiến xưa, xứng đáng được hưởng hạnh phúc và sự trân trọng của mọi người.
Vũ Nương, một người phụ nữ, được nghĩ rằng sẽ có một cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn, nhưng lại phải đối mặt với nỗi đau và oan khuất đắng cay. Khi chồng của nàng, Trương Sinh trở về, nghe lời con trẻ và nghi ngờ rằng nàng đã có hành động thất tiết và đã cư xử phũ phàng. Trước khi tự tử, nàng cố gắng phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng của mình. Nàng đã nói về thân phận, tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm lòng trung thành của mình: “Tôi vốn là một người khó khăn, được nương tựa vào gia đình giàu có. Chúng ta vẫn chưa được sum họp và đạt được sự thỏa mãn trong tình chăn gối, và chúng ta phải chia phôi vì công việc quân sự. Chúng ta đã giữ gìn tình cảm trong ba năm qua. Tôi đã dành tình yêu và sự quan tâm cho anh, và tôi không bao giờ mất nết hay hư thân như lời anh nói. Tôi chỉ muốn anh hiểu và không nghi ngờ tôi nữa”. Những lời nói của nàng đều nhằm mục đích hàn gắn hạnh phúc gia đình đang đứng trước nguy cơ tan vỡ. Tuy nhiên, Trương Sinh không tin và tiếp tục mắng mỏ và đuổi nàng đi. Hạnh phúc gia đình của nàng đã tan vỡ, tình yêu đã không còn. Cuộc hôn nhân của họ đã không thể hàn gắn được nữa, và bao nhiêu công sức để xây dựng tổ ấm đã trở nên vô nghĩa. Không thể giải quyết được nỗi oan khuất, nàng quyết định tìm đến cái chết để bày tỏ tấm lòng của mình. Dù sau này được đưa xuống dưới Thủy cung, nhưng, Vũ Nương sẽ chẳng có cơ hội nào quay trở lại trần thế, được sống hạnh phúc với chồng con, trong một mái ấm yêu thương.
Tác phẩm kết thúc bằng một cái kết buồn, nhưng đủ để lại trong lòng người đọc những băn khoăn, day dứt về số phận người phụ nữ. Sự thành công của một truyện tiểu thuyết phụ thuộc vào việc sắp xếp các tình tiết một cách hợp lý, cách tạo ra các tình huống thắt nút và mở nút. Tác giả thường sẽ bổ sung một số tình tiết, thay đổi hoặc xóa bớt những phần không cần thiết, và tăng cường những tình tiết quan trọng để tạo ra một diễn biến hợp lí, tăng tính bi kịch và làm cho câu chuyện hấp dẫn hơn.
Trong truyện Vũ Nương, tác giả Nguyễn Dữ đã sử dụng khéo léo các yếu tố kì ảo để tạo ra một kết thúc có hậu và nổi bật vẻ đẹp của nhân vật chính. Tác giả đã thông qua câu chuyện của Vũ Nương, lên án và tố cáo xã hội phong kiến, mà đặc biệt là sự coi trọng quyền uy của người giàu và đàn ông. Đồng thời, tác giả cũng thể hiện tấm lòng trân trọng của mình đối với người phụ nữ phải chịu đựng nhiều bất hạnh và thiệt thòi trong xã hội.