Phương Đông cổ đại là một vùng đất rộng lớn từ Ai Cập, Babilon, tới Ấn Độ, Trung Quốc…, là nơi sớm xuất hiện nhiều trung tâm triết học của thế giới, trong đó hai trung tâm triết học có ảnh hưởng nhiều đến lịch sử tư tưởng, văn hóa Việt Nam là Ấn Độ và Trung Quốc cổ, trung đại.
Mục lục bài viết
1. Điều kiện ra đời của triết học Ấn Độ cổ, trung đại:
Điều kiện tự nhiên của Ấn Độ cổ đại rất phức tạp: địa hình có nhiều núi non trùng điệp, có nhiều sông ngòi với những đồng bằng trù phú; khí hậu có vùng nóng, ẩm, mưa nhiều, có vùng lạnh giá quanh năm tuyết phủ, lại có những sa mạc khô khan. Nét nổi bật về kinh tế – xã hội của Ấn Độ cổ đại là sự tồn tại sớm và kéo dài kết cấu kinh tế xã hội theo mô hình “công xã nông thôn”. Trong kết cấu này, ruộng đất thuộc về nhà nước, dân công xã canh tác ruộng đất công và nộp tô cho nhà nước, nô lệ không có vai trò trong sản xuất. Trên cơ sở mô hình ấy, trong xã hội Ấn Độ cổ, trung đại đã tồn tại rất dai dẳng sự phân chia đẳng cấp, sự phân biệt chủng tộc, dòng dõi, nghề nghiệp, tôn giáo làm cho kết cấu xã hội rất phức tạp. Nền văn hóa Ấn Độ cổ đại rất phát triển. Người Ấn Độ đã biết quả đất tròn quay xung quanh một trục, đã biết sáng tạo ra lịch pháp, đã có hệ thống số đếm thập phân, đã biết đến số không, đã có những thành tựu trong đại số, hình học, khai căn, các phép tính lượng giác, đường tròn…, y học và hóa học phát triển. Đây cũng là thời kỳ phát triển tư duy trừu tượng, thời kỳ ra đời của các hệ thống tôn giáo, triết học.
Những điều kiện trên luôn tác động mạnh đến con người, để lại dấu ấn tâm linh đậm nét, tạo nên cơ sở ra đời và quy định nội dung tính chất của nền triết học Ấn Độ cổ, trung đại. Nét đặc thù của nền triết học Ấn Độ là nền triết học chịu ảnh hưởng của những tư tưởng tôn giáo có tính chất “hướng nội”. Vì vậy, việc lý giải và thực hành những vấn đề nhân sinh quan dưới góc độ tâm linh tôn giáo nhằm đạt tới sự “giải thoát” là xu hướng trội của nhiều học thuyết triết học – tôn giáo Ấn Độ cổ đại.
2. Quá trình hình thành và phát triển của triết học tôn giáo Ấn Độ cổ, trung đại:
Người ta phân chia quá trình hình thành và phát triển của triết học Ấn Độ cổ, trung đại thành ba thời kỳ chính :
Thời kỳ thứ nhất là thời kỳ Vâđa (khoảng thế kỷ XV tr.CN đến thế kỷ VIII tr.CN). Ở thời kỳ này, tư tưởng thần thoại mang tính chất đa thần tự nhiên phát triển thành tư tưởng thần thoại có tính chất nhất nguyên. Đồng thời với tư tưởng triết lý về các vị thần đã xuất hiện một số tư tưởng duy vật, vô thần tản mạn, với những khái niệm, phạm trù triết học duy vật thô sơ. Những tư tưởng trên biểu hiện trong kinh sách cổ có tính tổng hợp tri thức và giáo lý tôn giáo lớn như kinh Vâđa, Upanisad, đạo Bàlamôn…
Thời kỳ thứ hai là thời kỳ cổ điển, hay còn gọi là thời kỳ Bàlamôn – Phật giáo (khoảng thế kỷ VI tr.CN đến thế kỷ VI). Hệ tư tưởng chính thống thời kỳ này là giáo lý đạo Bàlamôn và triết lý Vâđa, Upanisad. Do có những biến động lớn về kinh tế, chính trị, xã hội, tư tưởng, các trường phái triết học – tôn giáo thời kỳ này đã được chia làm hai hệ thống chính thống và không chính thống. Hệ thống chính thống thừa nhận uy thế của kinh Vâđa, biện hộ cho giáo lý Bàlamôn, bảo vệ chế độ đẳng cấp xã hội, gồm sáu trường phái: Samkhya, Vedànta, Nyaya, Vaisesika, Mimanga, Yoga. Hệ thống không chính thống phủ định uy thế kinh Vâđa, phê phán giáo lý Bàlamôn, lên án chế độ đẳng cấp xã hội, gồm ba trường phái: Lokàyata, Phật giáo, đạo Jaina.
Thời kỳ thứ ba gọi là thời kỳ sau cổ điển hay còn gọi là thời kỳ xâm nhập của Hồi giáo (khoảng thế kỷ VII – XVIII). Từ thế kỷ VII đạo Hồi xâm nhập vào Ấn Độ. Ở bình diện tư tưởng, cuộc cạnh tranh uy thế giữa đạo Phật, đạo Bàlamôn và đạo Hội diễn ra ngày càng quyết liệt. Được sự ủng hộ của giai cấp thống trị là tín đồ của Hồi giáo, đạo Hồi từng bước phát triển. Sự phát triển của đạo Hồi đã | làm cho đạo Phật suy yếu và đến thế kỷ XII và đến đầu kỷ nguyên mới đạo Bàlamôn phát triển thành đạo Hindu.
Đạo Hồi do Mohammed (người Ả Rập) sáng lập vào thế kỷ VII. Tiếng Ả Rập gọi là Islam, có nghĩa là “thuận tòng”, “tuân theo” – tức là thuận tòng thánh Allah tối thượng và duy nhất, tuân theo vị sứ giả của thánh Allah là Mohammed. Cơ sở giáo lý của đạo Hồi là Kinh Coran và những truyền thống, tập quán (Sunna) gồm những tục lệ và hành động do Mohammed truyền lại. Đạo Hồi là đạo một thần, chỉ có một Thượng đế là đức Allah (Ala). Mohammed là vị tiên tri của đức Allah. Tư tưởng triết học của Hồi giáo được thể hiện trong kinh Coran:
– Kinh Coran cho rằng: cội nguồn mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, kể cả con người là thánh Allah.
– Cốt đạo của đạo Hồi là đức tin, cầu nguyện, ăn chay, bố thí và hành hương. Ngoài ra, tín đồ Hồi giáo còn có bổn phận quan trọng là tham dự các cuộc thánh chiến. Bổn phận này được đặt ra sau khi Mohammed qua đời nhằm mục đích bành trướng thế lực và truyền bá tôn giáo.
Như vậy, triết lý của đạo Hồi là triết lý duy tâm, ngoại lai, xâm nhập vào Ấn Độ, nó là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị ở Ấn Độ trong thời kỳ chế độ phong kiến suy tàn.
3. Một số nội dung triết học Ấn Độ cổ, trung đại:
Tư tưởng triết học Ấn Độ cổ, trung đại là đã đặt ra và giải quyết nhiều vấn đề triết học như bản thể luận,
nhận thức luận v.v.. Do chịu ảnh hưởng lớn của những tư tưởng tôn giáo, nên nội dung tư tưởng triết học Ấn Độ cổ, trung đại thể hiện nét đặc thù khi trình bày các nội dung triết học chung.
3.1. Tư tưởng bản thể luận – Bản thể luận thần thoại tôn giáo:
Tự nhiên, xã hội nơi sinh trưởng và tồn tại của con người luôn ẩn dấu những điều bí ẩn, kỳ diệu, luôn gây cho con người nhiều tai họa. Để giải thích những hiện tượng có thật ấy, người Ấn Độ đã sáng tạo nên một thế giới các vị thần có tính chất tự nhiên. Các vị thần được người Ấn Độ thờ phụng đầu tiên tượng trưng cho sức mạnh của các lực lượng, sự vật tự nhiên đó là trời, đất, mặt trời, mặt trăng, lửa, ánh sáng, gió, mưa… Về sau, người Ấn Độ lại sáng tạo nên những vị thần để lý giải các hiện tượng xã hội, luân lý đạo đức như thần ác, thân thiện, thân công lý. Người Ấn Độ giải thích rằng vũ trụ tồn tại ba thế lực có liên hệ mật thiết với nhau là thiên giới, trần thế, địa ngục…
Họ đã phân tích các hiện tượng tự nhiên, họ lý giải tự nhiên qua biểu tượng của thế giới thần linh hiện diện khắp nơi, chia nhau chi phối sự biến của vũ trụ theo sự điều khiển của nguyên lý rita (thích hợp). Họ tin tưởng gửi gắm tâm hồn, cuộc sống tự nhiên của mình vào thế giới các vị thần ấy… Vì vậy, bất kỳ cái gì đối với mình, với gia đình mình… họ đều cầu khấn. Họ cúng tế không chỉ mê tín mà là lòng tin. Họ cho rằng đem lòng thành kính của mình để tụng niệm thần linh là bổn phận và hạnh phúc của con người. Các thần linh trong kinh Vâđa trú ngụ khắp ba cõi: Hạ giới, Trung gian, Thiên giới. Các thần khác nhau là sự biểu hiện khác nhau của một đấng duy nhất đó là Thượng đế toàn năng. Thần cai quản hạ giới là thần lửa Agni. Thần cai quản không trung là thần gió Vâyu, thần cai quản thiên giới là thần mặt trời Surya. Đó là ba ngôi tối linh trong kinh Vâđa. Để giải thích các vấn đề luân lý đạo đức xã hội, người Ấn Độ sáng tạo nên vị thần Varuna. Thần Varuna chuyên duy trì trật tự vận hành của vũ trụ đồng thời là thần bảo vệ công lý.
Thần linh đối với người Ấn Độ là bậc siêu việt mang tính tự nhiên và mang đậm nhân tính. Thần cũng có vợ, có chồng, cũng uống rượu, cũng có những tật xấu, Nhìn chung đối với người Ấn Độ, thần linh bao giờ cũng đại diện cho sự tốt lành.
Về sau, quan niệm tự nhiên về các vị thần dân dân mờ nhạt, thay vào đó là những nguyên lý trừu tượng duy nhất tối cao được coi là nguồn gốc vũ trụ và đời sống con người. Đó là “thần sáng tạo tối cao” Brahman và một “tinh thần tối cao” Bahman. Tư tưởng này biểu hiện trong giáo lý đạo Bàlamôn, trong triết lý Upanisad. Thần “sáng tạo | tối cao” có nguồn lực sáng tạo và mặt đối lập với nó là huỷ diệt, nên có thân huỷ diệt Shiva. Có huỷ diệt thì có bảo tồn, nên có thần bảo vệ là Vishnu. Sáng tạo, huỷ diệt và bảo tồn là ba mặt thống nhất trong quá trình biến hóa vũ trụ.
Như vậy, quá trình hình thành, phát triển tư tưởng triết học, tôn giáo trong kinh Vêđa là từ sự giải thích các sự vật hiện tượng cụ thể của thế giới, qua biểu tượng các vị thần có tính chất tự nhiên, người Ấn Độ đi tới phát hiện cái chung, cái bản chất, đó là bản nguyên tối cao của thế giới “Đấng sáng tạo tối cao” hay “tinh thần vũ trụ tối cao” Brahman. Đó là bước chuyển từ thế giới quan thần thoại sang thế giới quan triết học.
– Tư duy triết học về bản thể luận.
Kinh Upanisad ra đời sớm vào khoảng thế kỷ VIII – VI tr.CN. Nội dung căn bản của kinh Upanisad là vạch ra nguyên lý tối cao bất diệt là bản thể của vũ trụ vạn vật, giải thích bản tính con người và mối quan hệ giữa đời sống tinh thần của con người với nguồn sống bất diệt của vũ trụ, từ đó tìm ra con đường giải thoát cho con người ra khỏi sự ràng buộc của thế giới sự vật, hiện tượng hữu hình, hữu hạn như phù du này. Với nội dung tư tưởng triết học phong phú và sâu sắc như vậy, Upanisad trở thành gốc triết lý cho hầu hết tất cả các hệ thống triết học tôn giáo Ấn Độ, là cơ sở lý luận cho Bàlamôn và đạo Hindu sau này.
Để nhận thức được bản thể tuyệt đối tối cao của vũ trụ, Upanisad đã phân chia nhận thức thành hai trình độ hiểu biết khác nhau: trình độ nhận thức hạ trị và thượng trí. Ở trình độ thường trí có thể nhận thức được “tinh thần vũ trụ tuyệt đối tối cao” Brahman. Còn trình độ hạ trí chỉ phản ánh sự vật hiện tượng cụ thể hữu hạn, hữu hình, nó gồm các tri thức khoa học thực nghiệm, ngữ pháp, luật học và kể cả bốn tập Văđa gồm Rig Vâđa, Sama • Veda, Yarur – Vêđa, Asharva • Vla. Thường trí là trình độ nhận thức vượt qua tất cả thế giới sự vật, hiện tượng hữu hình. Tuy nhiên, hạ trí cũng có vai trò của nó đối với nhận thức, nó là phương tiện đưa mọi người tới trình độ nhận thức ở bậc thượng trí. Khi đã hiểu biết được thực tại tuyệt đối tối cao, nhận thức được chân tướng của vạn vật và chân tính của mình thì con người có thể đạt tới giác ngộ, giải thoát.
Cái thực tại đầu tiên tối cao nhất, là căn nguyên của tất cả theo Upanisad là tinh thần vũ trụ tối cao Brahman. Brahman là toàn tri, toàn năng, là nguyên lý cấu tạo và chi phối vũ trụ, là nguyên nhân của mọi sự sống. Brahman là nguồn sáng của mọi ánh sáng, là cái ở đằng trước, đằng sau, bên phải, bên trái, ở chót vót trên cao, ở cùng tận đáy sâu. Brahman là cái vĩ đại nhất. Tinh thần vũ trụ tối cao Brahman là linh hồn của thế giới, là nguồn sống của tất cả, nó là bản chất nội tại của tất cả, là bản nguyên của tất cả. Mọi sự vật, hiện tượng, thiên hình vạn trạng, luôn vận động biến đổi, kể cả con người là biểu hiện khác nhau của tinh thần vũ trụ tối cao Brahman. Tinh thần vũ trụ tối cao biểu hiện trong con người và chúng sinh là linh hồn tối cao bất diệt Atman, nó là bộ phận của Brahman. Không ở đâu không có Brahman tồn tại tác động, chi phối. Brahman là cái ngã vũ trụ đại đồng thì Atman là cái ngã cá nhân. Vì Atman đồng nhất với Brahman nên bản chất linh hồn cũng tồn tại vĩnh viễn, bất diệt như tinh thần vũ trụ tối cao Brahman. Song do những tình cảm, ý chí, dục vọng và những hành động của thể xác nhằm làm thoả mãn mọi | ham muốn của con người đã che lấp bản tính của mình, gây nên hậu quả là linh hồn bất tử, đầu thai hết thân xác này đến thân xác khác với hình thức khác nhau từ kiếp này sang kiếp khác gọi là luân hồi.
3.2. Tư tưởng giải thoát của triết học tôn giáo Ấn Độ:
Triết học Ấn Độ cổ, trung đại có nhiều trường phái song có cái chung của nhiều trường phái là đều tập trung vào việc lý giải vấn đề then chốt nhất – đó là vấn đề bản chất, ý nghĩa của đời sống, nguồn gốc nỗi khổ của con người và con đường, cách thức giải thoát cho con người khỏi bể khổ của cuộc đời. Mục đích, nhiệm vụ của các trường phái triết học Ấn Độ cổ đại là giải thoát. Phương tiện, con đường, cách thức của môi trường phái có thể khác nhau, nhưng mục đích là một. Giải thoát là phạm trừ triết học tôn giáo Ấn Độ dùng để chỉ trạng thái tinh thần, tâm lý, đạo đức của con người thoát khỏi sự ràng buộc của thế giới trần tục và nỗi khổ của cuộc đời. Đạt tới sự giải thoát, con người sẽ đạt tới sự giác ngộ, nhận ra chân bản của mình, thực tướng của vạn vật, xóa bỏ vô minh, diệt mọi dục vọng, vượt ra khỏi nghiệp báo, luân hồi, hòa nhập vào bản thể tuyệt đối Brahman hay Niết bàn.
Để đạt tới giải thoát con người phải dày công tu luyện hành động đạo đức theo giới luật, tu luyện trí tuệ, trực giác thực nghiệm tâm linh, chiêm nghiệm nội tâm lâu dài. Đạt tới sự giải thoát cũng chính là lúc con người đạt tới sự siêu thoát, vượt ra khỏi sự ràng buộc của thế tục, hoàn toàn tự do, tự tại.
Cội nguồn của tư tưởng giải thoát trong triết học tôn giáo Ấn Độ trước hết là do điều kiện tự nhiên và kinh tế – xã hội Ấn Độ cổ đại quy định. Chính điều kiện khách quan ấy quy định nội dung tính chất nền triết học Ấn Độ nói chung, quy định sự hình thành và phát triển tư tưởng giải thoát. Thứ hai, về lôgic nội tại của nó, các nhà tư tưởng Ấn Độ ít chú trọng ngoại giới coi trọng tư duy hướng nội, đi sâu khái quát đời sống tâm linh con người.
Tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ cổ, trung đại luôn biến đổi và phát triển với đời sống xã hội. Tư tưởng này manh nha từ thời Rig Vậđa (1000 – 1500 tr.CN) đến Brahman (1000 – 800 tr.CN) và phát triển trong triết lý Upanisad (800 – 500 tr.CN). Tư tưởng này được các trường phái triết học thời kỳ Bàlamôn – Phật giáo khai thác, được thể hiện trong sáu trường phái thuộc hệ thống chính thống và phái Jaina, Phật giáo trong hệ thống không chính thống. Mỗi trường phái của triết học tôn giáo Ấn Độ cổ đại với nội dung triết lý, khuynh hướng giáo lý và quan điểm đạo đức nhân tính khác nhau đại diện tiếng nói của mỗi tầng lớp khác nhau; song có thể nói tất cả như một cuộc hành trình của con người tìm kiếm, phát hiện và trở về với bản chất và lương tâm của chính mình khi mà con người còn vô minh, tham dục và lãng quên nó.
Cách thức và con đường giải thoát của kinh Vâđa là tôn thờ và cầu xin sự phù hộ của các đấng thần linh biểu tượng cho sức mạnh của tự nhiên và xã hội; còn giải thoát của kinh Upanisad là đồng nhất giữa linh hồn mình với vũ trụ, giữa Atman với Brahman. Trong hệ thống chính thống, Mimansa chủ trương giải thoát bằng nghi thức tế tự và chấp hành nghĩa vụ xã hội, tôn giáo; Yoga đưa hệ thống phương pháp tu luyện thực hành kỷ luật về thể xác và tâm lý; các trường phái Nyaya, Vai’sesika, Vedànta đi sâu khai thác cách thức giải thoát bằng con đường tu luyện trí tuệ, bằng nhận thức trực giác, linh cảm. Trong hệ thống không chính thống, Lokàyata đã phá quan điểm linh hồn bất tử, phủ nhận nghiệp báo, luân hồi, giải thoát của giáo lý Bàlamôn, chủ trương chấp nhận cuộc sống hiện thực có khổ đau có hạnh phúc, Jaina chủ trương tu luyện đạo đức bằng phương pháp khổ tu, không sát sinh, không ăn cắp, không nói dối, không dâm dục, không tham lam.
Đỉnh cao của tư tưởng giải thoát trong triết học tôn giáo Ấn Độ là ở Phật giáo, Phật giáo coi mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới, kể cả con người là do nhân duyên hòa hợp mà biểu hiện, biến đổi vô thường. Vì vạn vật vô thường nên vạn pháp vô ngã. Do vô minh và lòng tham dục… của con người mà gây nên những nỗi khổ triền miên. Bởi vậy, phải tu luyện trí tuệ, thiền định và tu luyện đạo đức theo giới luật để phá bỏ vô minh, diệt trừ tham dục để làm cho tâm thanh tịnh, hòa nhập vào Niết bàn.
Tư tưởng giải thoát trong triết học tôn giáo Ấn Độ cổ, trung đại thể hiện tính chất nhân bản, nhân văn sâu sắc. Đó là kết quả phản ánh những đặc điểm yêu cầu của đời sống xã hội Ấn Độ đương thời. Dù vậy, do giải thích chưa đúng nguồn gốc của nỗi khổ cho nên tư tưởng giải thoát này mới dừng lại ở sự giải phóng con người về mặt tinh thần, tâm lý, đạo đức chứ không phải là biến đổi cách mạng hiện thực.