Theo nghi thức của Giáo hội Công giáo Rôma, việc truyền phép trong bí tích giải tội (xưng tội) khác với linh hướng. Xưng tội là một trong bảy bí tích của Giáo hội, trong khi linh hướng là một cuộc gặp gỡ với một vị linh hướng dành cho ai đó đang tìm kiếm lời khuyên để đến gần Đức Chúa Trời hơn.
Mục lục bài viết
1. Sự khác biệt giữa xưng tội và linh hướng:
Điều quan trọng là phải biết sự khác biệt giữa xưng tội và linh hướng, chỉ khi đó bạn mới biết mình đang tìm kiếm điều gì. Nếu bạn muốn được giúp đỡ trong đời sống tâm linh, hãy hẹn gặp với vị linh hướng của bạn. Nếu bạn muốn tội lỗi của mình được tha thứ, hãy đến nhà thờ gần nhất để xưng tội. Tham gia vào việc linh hướng giúp bạn mạnh dạn thể hiện bản thân, trong khi thực hiện điều đó trong khi xưng tội có thể gây khó khăn, đặc biệt nếu linh mục vẫn phải chuẩn bị cho Thánh lễ hoặc nếu có một hàng dài hối nhân phía sau. Vì vậy, tốt hơn là nên tách biệt hai hoạt động này, nói cách khác, để dành thời gian cho việc linh hướng không trùng với thời gian xưng tội.
2. Khái niệm xưng tội:
Đức Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích giải tội để mở rộng chức vụ tha thứ của mình thông qua chức vụ của các môn đồ. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo tóm tắt bí tích ơn Chúa như sau: Khi Đức Chúa Trời trao cho các môn đồ một phần quyền tha tội, thì Người cũng trao cho các môn đồ quyền giao hòa tội nhân với Giáo Hội. Giải thích về sứ mạng này của các môn đồ được diễn tả cách đặc biệt qua những lời phán của Đức Chúa Giêsu nói với Peter: “Ta trao chìa khóa Nước Thiên Đàng cho ngươi, hễ điều gì ngươi buộc dưới đất thì cũng sẽ buộc ở trên trời, điều gì mở dưới đất, thì cũng sẽ mở ở trên trời” (Ma-thi-ơ 16:19). Chức vụ đóng và mở đã trao cho sứ đồ Peter thì cũng được trao cho các môn đồ cùng với người lãnh đạo.
Cụ thể, chính Đức Chúa Trời là Đấng tha tội qua chức vụ. Trong bí tích thống hối, hối nhân đến gặp linh mục và xưng tội, nhưng chỉ được xin xưng tội, cùng số lần phạm các tội.
Sau khi kiểm tra kỹ lưỡng bản thân và hiểu rõ tội lỗi của mình, Cơ đốc nhân buộc phải thú nhận tất cả tội trọng và số tội trọng đã phạm sau lễ rửa tội, và anh ta vẫn không được tha thứ bởi quyền năng tha thứ của Giáo hội nếu anh ta đã không thú nhận trong lần xưng tội riêng tư. (Bộ Giáo luật 1983, Điều 988 §1) Giáo hội cũng khuyến khích việc xưng các tội hàng ngày, nhưng đây không phải là một phần thiết yếu của bí tích này.
Theo nghi thức La Mã, việc xưng tội thường ngắn gọn và cụ thể, chỉ tập trung vào những tội trọng phải xưng. Mục sư có thể đưa ra lời khuyên và khích lệ, nhưng những bài diễn văn dài hơn nên dành cho phần hướng dẫn linh hướng.
Ngoài ra, giáo luật quy định rằng việc tuyên xưng đức tin, nếu có thể, nên được tổ chức trong nhà thờ hoặc nhà nguyện, trừ khi có lý do chính đáng. (x. Bộ Giáo luật 1983, giáo luật 96 §1).
3. Hướng dẫn cách xưng tội:
3.1. Điều Răn I:
“Ta là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của ngươi. Đừng có thần khác chống lại Ta” (Xuất Ê-díp-tô Ký 20:2-3). ▪ Tôi có thực sự yêu mến Đức Chúa Trời trên hết mọi sự không? Hay tôi đặt những thứ khác như công việc, tiền bạc, ma túy, truyền hình, danh vọng, thú vui, hoặc điều gì đó khác. — trước Chúa?
– Tôi có cầu nguyện hằng ngày lên Đức Chúa Trời không?
– Tôi hành động trái với đức tin, tôi không hoàn toàn tin tưởng vào Chúa, thực hành những điều huyền bí, ma thuật, ouija, bói toán, đồng cốt, bùa ngải, xem giờ, ngày lành… hay đọc, xem hay chơi những trò chơi phản tôn giáo và đạo đức?
– Tôi có hoàn toàn đồng ý và làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời hay tôi chỉ chọn những phần “dễ chịu” trong sự dạy dỗ của Ngài? Tôi đang cố gắng phát triển sự hiểu biết của riêng mình về đức tin của mình hay tôi thờ ơ với những sự thật Chúa dạy?
– Tôi có nghi ngờ hoặc phủ nhận một cách có ý thức những lẽ thật được tiết lộ, trở thành một kẻ dị giáo, bội đạo hoặc xa lạ với giáo hội không? Tôi có sẵn sàng khẳng định, bảo vệ và thực hành đức tin của mình ở nơi công cộng, chứ không chỉ nơi riêng tư không?
3.2. Điều Răn II:
“Chớ lấy danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi mà làm chơi” (Xuất Ê-díp-tô Ký 20:7).
– Tôi có yêu mến và tôn kính thánh danh của Đức Chúa Trời không?
– Tôi có sử dụng danh Chúa để làm chứng về các tội như khai man, vi phạm lời thề không?
– Tôi có cố gắng hết sức để giữ những lời hứa và cam kết của mình với Đức Chúa Trời, đặc biệt là những lời hứa khi chịu phép báp têm và lễ thêm sức không?
– Tôi có xúc phạm, vu khống hay kính trọng Đức Maria, các thánh, nhà thờ, những người được thánh hiến, các nơi thánh và các vật thánh không?
3.3. Điều Răn III:
“Hãy nhớ ngày Sa-bát và giữ làm ngày thánh” (Xuất Ê-díp-tô Ký 20:8).
– Tôi có bỏ lễ Chúa nhật hoặc ngày lễ mà không có lý do chính đáng (ốm, chăm sóc người ốm, không tìm được nhà thờ, v.v.)?
– Tôi tham gia Lễ Thánh một cách tích cực và có ý thức hay chỉ một cách máy móc?
– Tôi có đủ chú ý đến lời của Đức Chúa Trời hay tôi dễ bị phân tâm?
– Tôi có cố ý đi lễ trễ và về sớm không lý do chính đáng không?
– Tôi có nhịn ăn một giờ trước thánh lễ không?
– Tôi có thể rước lễ trong tình trạng tội trọng không? ▪ Tôi có biết Chúa Nhật là ngày của Chúa để thờ phượng Chúa, yêu thương gia đình và người nghèo hay chỉ là “ngày cuối tuần”?
3.4. Điều Răn IV:
“Hãy hiếu kính cha mẹ” (Xuất Ê-díp-tô Ký 20:12).
– Tôi có lơ là bổn phận với con cái, cha mẹ, anh chị em của vợ (chồng) không?
– Tôi có vô ơn với những hy sinh mà cha mẹ đã dành cho tôi không?
– Tôi có bất kính với cha mẹ mình, đối xử tệ bạc với họ hay phản ứng một cách ngạo mạn khi họ sửa sai tôi không?
– Nó có gây căng thẳng và tranh cãi trong gia đình tôi không?
– Tôi có đang chăm sóc người thân già yếu không?
– Tôi có muốn giáo dục con cái theo giáo lý Kitô giáo, tôi có khuyến khích chúng đi nhà thờ, đi lễ, học giáo lý…? Tôi đang nêu gương tốt cho con cái bằng những đức hạnh của mình hay tôi đang làm gương xấu cho chúng bằng những lỗi lầm của mình?
– Khi kỷ luật con cái, tôi có làm thế với tình yêu thương và sự khôn ngoan không?
– Tôi có khuyến khích các con tôi cầu nguyện để chúng hiểu tại sao Chúa tạo dựng chúng và chúng nhận ra chúng có ơn gọi làm linh mục hay tu sĩ không?
– Tôi có tôn trọng và tuân theo những người lãnh đạo giáo hội và cấp trên hợp pháp không?
– Tôi có đang khuyến khích ai đó chống lại nhà thờ và bề trên không?
3.5. Điều răn V:
“Chớ giết người” (Xuất Ê-díp-tô Ký 20:13).
– Tôi có cố ý giết người hoặc làm hại thân thể người khác không?
– Tôi có cố ý tự sát hay có ý định tự tử hay tôi có hợp tác với việc đó không?
– Tôi có phá thai hoặc tư vấn hoặc giúp đỡ người khác làm như vậy không? Tôi đang trực tiếp hay gián tiếp tham gia phá thai (thông qua sự im lặng, hỗ trợ tài chính của những người phá thai hoặc các tổ chức ủng hộ phá thai)?
– Tôi tham gia thụ tinh ống nghiệm bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo hay thụ tinh trong ống nghiệm? Tôi có tham gia chẩn đoán thai nhi với ý định phá thai nếu kết quả không khả quan không? Tôi có đặt vòng tránh thai hay uống thuốc để giết đứa con sinh non của mình không? (Lưu ý: Những ai cố ý phạm tội hoặc tham gia vào việc phá thai, mặc dù họ biết rằng họ sẽ bị vạ tuyệt thông vì tội này, sẽ bị vạ tuyệt thông. Trên thực tế, giám mục thường chỉ trao quyền này cho các linh mục quản xứ.)
– Tôi có tham gia hoặc hỗ trợ trợ tử cho bệnh nhân mắc bệnh nan y không?
3.6. Điều Răn VI và IX:
“Ngươi chớ ngoại tình” (Xuất Ê-díp-tô Ký 20:1). “Chớ ham muốn vợ người ta” (Xuất Ê-díp-tô Ký 20:17).
– Tôi có nhớ rằng thân thể tôi là đền thờ của Đức Chúa Trời không?
– Tôi có thích che giấu những suy nghĩ và ham muốn phi lý không?
– Tôi có cố tình xem phim, ảnh, sách, báo, trang web, v.v… khiêu dâm không?
– Tôi có chửi thề hay ám chỉ ác ý và phát tán nội dung khiêu dâm không?
– Tôi có thực hiện hành vi thiếu trinh tiết đối với bản thân (thủ dâm) hoặc đối với người khác, chẳng hạn như ngoại tình (quan hệ tình dục với người đã có gia đình), gian dâm (quan hệ tình dục trước hôn nhân), hoặc quan hệ tình dục đồng giới không?
– Tôi có bóc lột tình dục trẻ vị thành niên không?
– Tôi có chung thủy với chồng trong suy nghĩ và hành động không?
– Tôi có phạm tội khi sử dụng các biện pháp tránh thai trái với chu kỳ tự nhiên, triệt sản hoặc thụ tinh nhân tạo không?
– Tôi có đụng chạm hoặc hôn bừa bãi người khác khi còn độc thân không? Tôi có coi người khác là đối tượng trong hành động hoặc suy nghĩ của mình không?
– Tôi có gây ra những tội lỗi khác bằng cách khiêu dâm hoặc ăn mặc hở hang không?
– Tôi có kết hôn theo luật nhà thờ không?
– Tôi có khuyến khích hoặc tổ chức những đám cưới ngoài nhà thờ của những người theo đạo không?
3.7. Điều răn thứ VII và X:
“Ngươi chớ trộm cắp” (Xuất Ê-díp-tô Ký 20:15). “Chớ tham của cải người ta” (Xuất Ê-díp-tô Ký 20:17).
– Tôi có tham lam hay tham lam cho người khác không?
– Tôi có tài sản của người khác không? Tôi có quá gắn bó với của cải thế gian không?
– Tôi có ăn cắp, lừa đảo, khuyến khích hoặc khuyến khích người khác ăn cắp hoặc giữ tài sản ăn cắp không? Tôi có chấp nhận đồ ăn cắp không? Tôi có trả lại đồ bị đánh cắp hoặc thay thế chúng không?
– Tôi có làm hư hỏng tài sản của người khác mà không chịu trách nhiệm và không bồi thường thiệt hại không?
– Tôi cẩu thả hay tôi đã lừa đảo?
– Tôi có đang lừa dối người khác không? Tôi có đang làm những gì tôi được trả tiền để làm không? Tôi có trả lương công bằng cho những người làm việc cho tôi không? Tôi có đang giữ lời hứa và hợp đồng mà tôi đã ký không? Tôi có đưa hoặc nhận hối lộ hoặc lại quả không?
– Tôi có tôn trọng nhân quyền không? Tôi có lo chu toàn bổn phận đối với Đức Chúa Trời và gia đình không?
– Tôi có dùng tiền để chơi cho cuộc sống gia đình không? Tôi có đang đánh bạc với số tiền lớn vì lòng tham hay để mua vui thay vì dùng tiền của mình để giúp đỡ người nghèo không?
– Tôi có quảng đại chia sẻ của cải của mình với người nghèo không?
– Tôi có quảng đại phục vụ hội thánh không? Tôi có dành thời gian, tài năng và của cải của mình cho công việc tông đồ và từ thiện của Giáo hội và cho các hoạt động của cộng đồng tôi không?
– Tôi có đang hủy hoại môi trường bằng cách sử dụng lãng phí và bừa bãi các nguồn tài nguyên thiên nhiên không?
3.8. Điều Răn VIII:
“Chớ làm chứng gian hại người khác” (Xuất Ê-díp-tô Ký 20:16).
– Tôi có nói dối không? Lời nói dối của tôi có gây hại đến tính mạng hay tài sản của người khác không?
– Tôi có vu cáo người khác không?
– Tôi có làm tổn hại danh dự của người khác bằng cách làm chứng sai hoặc bằng cách ác ý tiết lộ lỗi lầm hoặc tội lỗi của người đó không?
– Tôi có thề sai không? Tôi có từ chối chứng minh sự vô tội của người khác vì sợ hãi hoặc ích kỷ không?
– Tôi có tham gia vào những chuyện ngồi lê đôi mách hoặc chỉ trích không?
– Tôi có đang làm gương xấu cho người khác không?
– Tôi có phạm tội lừa đảo nào không?
– Tôi có xúc phạm hoặc bắt nạt người khác với ý định làm hại họ không?
– Tôi có đang lôi kéo hoặc dụ dỗ người khác để đạt được lợi ích bất hợp pháp không?
– Tôi có xét đoán, nói xấu và muốn người khác không?
– Tôi có tiết lộ một bí mật mà tôi phải giữ không?