Bài Tràng Giang sáng tác năm 1939 là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Huy Cận. Tác phẩm đã bộc lộ cảm xúc của cái “tôi” cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn thấm đượm tình người, tình đời và lòng yêu nước thầm kín nhưng nồng nàn.
Mục lục bài viết
1. Đôi nét về tác giả Huy Cận:
– Huy Cận (1919-2005) tên khai sinh là Cù Huy Cận
– Ông tham gia hoạt động cách mạng và giữ nhiều trọng trách khác nhau
– Cũng như tuổi trẻ lúc bấy giờ, Huy Cận ý thức được cuộc sống tù túng, buồn tẻ, lòng vòng nên thường có nỗi buồn, sự cô đơn được khắc họa khá rõ nét trong thơ ông.
– Công việc chính:
+ Tập thơ: Lửa thiêng, Vũ trụ ca, Mỗi ngày trời sáng, Đất nở hoa, Thơ đời, Tuổi sáu mươi,…
+ Văn xuôi: Kinh cầu tự
– Phong cách nghệ thuật: Thơ Huy Cận cô đọng, giàu chất suy tưởng
⇒ Huy Cận là gương mặt tiêu biểu của thơ ca hiện đại
2. Tác phẩm Tràng Giang:
2.1. Hoàn cảnh sáng tác:
– Bài thơ được viết vào mùa thu năm 1939
– Cảm hứng sáng tác của bài hát bắt nguồn từ hình ảnh sông Hồng mênh mông sóng nước, bốn bề lặng yên.
2.2. Bố cục:
– Phần 1 (khổ thơ 1): cảnh sông nước và tâm trạng buồn của nhà thơ
– Phần 2 (khổ thơ 2 + 3): cảnh hoang vắng và nỗi cô đơn của nhà thơ
– Phần 3 (khổ thơ 4): cảnh hoàng hôn tráng lệ và tình yêu quê hương, đất nước của nhà thơ.
2.3. Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật:
Đoạn thơ bộc lộ nỗi niềm của cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn thấm đượm tình người, tình đời, tình yêu nước thầm kín nhưng nồng nàn.
Bài thơ vừa cổ điển vừa hiện đại
3. Phân tích tác phẩm theo bố cục:
Nhan đề:
– Cảm nghĩ về một dòng sông mênh mông, gợi cảm xúc của bài thơ.
– Lời nói đầu: nêu hết tình và cảnh trong bài thơ
Khổ 1:
– Hình ảnh quan sát trên sông rất chân thực và giàu sức gợi
+ Những gợn sóng nhè nhẹ lan đến vô cùng gợi nỗi buồn vô tận
+ Con thuyền buông mái chèo một cách thụ động, để mặc cho nước đẩy, gợi sự lênh đênh. So với dòng sông, con thuyền rất nhỏ
+ hình ảnh hai vùng nước song song, đoàn thuyền trở về không hứa hẹn một cuộc gặp gỡ mà chỉ là sự chia ly.
+ câu thơ: Mấy hàng củi, một cành khô đặc biệt gợi cảm. Nó làm tôi nhớ đến một cá nhân nhỏ bé, bơ vơ giữa cuộc đời
– Sử dụng hiệu quả phép tương phản (buồn điệp điệp – nước song song, buồn trăm phương – lạc mấy dòng), âm tiết (điệp điệp, song song), tương phản giữa cá nhân và vũ trụ
Khổ thơ gợi nỗi buồn về sự chia ly, thiếu sự đồng cảm giữa con người với nhau, đặc biệt là nỗi buồn về kiếp người nhỏ bé, vô định.
Khổ 2:
– Hai câu đầu làm nổi bật sự cô quạnh, vắng lặng của cảnh chiều:
+ Đứng trước không gian ấy, con người càng cô đơn, khao khát được nghe âm thanh của cuộc sống con người.
+ nhưng chợ chiều đã tan, không gian vắng lặng và tĩnh lặng hơn
– Không gian hai câu cuối được mở ra theo các chiều: chiều cao, chiều sâu, chiều rộng, chiều dài. Trong vũ trụ sâu thẳm vô tận không chỉ có sự cô đơn, mà lòng người còn bao trùm bởi sự nhỏ bé, lạc lõng.
Nghệ thuật sử dụng từ đắt, giá trị, có chọn lọc gợi những hình ảnh biểu cảm: minh mẫn, thong thả, chót vót,…. Có tác dụng ngắt nhịp của bài thơ.
Khổ 3:
– Cái hiện hữu trước mắt là những hình ảnh gợi lên sự bồng bềnh vô định (trôi dạt về đâu) và sự tĩnh lặng, cô tịch (bờ vàng).
– Hình ảnh mà nhà thơ khao khát tìm kiếm là những chuyến phà qua lại, cây cầu như sự phủ định đã có sẵn trong từ không.
– Cảm giác lạc lõng một mình trước sông dài trời rộng đã khiến nhà thơ mong được đón nhận tiếng nói của con người, mong được nhìn thấy sự giao thoa mật thiết giữa con người với con người nhưng vạn vật vẫn cách biệt (hình ảnh con thuyền, cây cầu tượng trưng cho sự giao lưu hai bên nhưng không có) nỗi buồn về cuộc đời, về con người
Khổ 4:
– Mang màu sắc thơ Đường khá rõ nét từ hình ảnh ước lệ đến việc sử dụng thi liệu Đường luật
+ Hình ảnh mây đùn núi bạc là cảm hứng trong câu thơ của Đỗ Phủ chỉ sự hùng vĩ của thiên nhiên, nhưng câu thơ của Huy Cận lại miêu tả thiên nhiên lung linh, tráng lệ với những nét độc đáo riêng.
– Hình thức ngôn ngữ mang màu sắc cổ điển nhưng cảm xúc hiện đại: cái tôi cô đơn, bơ vơ, bị cuộc đời vùi dập
+ Hình ảnh con chim với đôi cánh nhỏ bé gợi cảm giác sợ hãi, hãi hùng.
+ Nỗi nhớ nhà xốn xang trong lòng, là mong ước của tác giả tìm được một chỗ dựa cho tâm hồn cô đơn, trống trải.
Nghệ thuật:
– Vẻ đẹp cổ điển thể hiện ở nhiều khía cạnh:
+ Mỗi dòng có 7 chữ, mỗi khổ có 4 dòng, cách nhau như một câu thất ngôn tứ tuyệt.
+ cách miêu tả thiên nhiên theo phong cách hội họa cổ điển: vài nét vẽ giản dị mà nắm bắt được cái hồn của tạo vật
+ tả cảnh ngụ tình
+ sang trọng, tao nhã từ hình ảnh, ngôn từ
– Tính hiện đại thể hiện ở cách cảm nhận sự vật, nỗi buồn tuyệt vọng chung của cái tôi lãng mạn đương thời.
4. Phân tích bài Tràng giang:
Huy Cận là một trong những cây bút xuất sắc nhất trong phong trào thơ mới. Thơ ông giàu chất suy tưởng, triết lí, luôn thể hiện sự giao cảm giữa con người với vũ trụ. Tràng Giang là một trong những bài thơ tiêu biểu của tác giả, thể hiện đầy đủ tư tưởng và phong cách thơ của nhà thơ.
Ngay ở dòng nhan đề của bài thơ, nhà thơ đã cho người đọc cảm nhận được nỗi buồn của cảnh cũng như tâm trạng của nhà thơ, lời ca tóm tắt ngắn gọn, chính xác cả cảnh và tâm trạng của bài thơ.
Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Đứng trước cảnh sông nước mênh mông, nỗi buồn của tác giả như được nhân lên gấp bội. Ngay ở khổ thơ đầu, tác giả đã sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh để khái quát về cảnh vật, qua đó tác giả muốn bộc lộ tâm trạng của mình. Hình ảnh “sóng gợn” gợi cho ta hình ảnh những con sóng đang lan tỏa, lan tỏa vô tận như nỗi buồn của nhà thơ thầm lặng nhưng day dứt. Sóng sông dài rộng càng nhân lên nỗi buồn của nhà thơ. Cảnh tượng con thuyền và tất cả nỗi cô tịch đã lấp đầy trong lòng nhà thơ những cảm xúc không biết bày tỏ cùng ai. Tác giả đã sử dụng những hình ảnh rất đời thường để đưa vào thơ của mình và đó là một sáng tạo độc đáo trong phong cách thơ của ông.
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng bến cô liêu
Một lần nữa, tác giả sử dụng những hình ảnh “rượu, gió, làng, chợ, bến” để bộc lộ cảm xúc của mình. Bằng sự cảm nhận của tác giả, cảnh trở nên thưa vắng, vắng một nỗi buồn thăm thẳm, làm cho cảnh trở nên vắng lặng, buồn tẻ, vắng lặng và cũng chính vì tĩnh lặng mà nhà thơ cảm nhận được điều đó.
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Tác giả nhận được những âm thanh của cuộc sống hàng ngày, nhưng âm thanh đó không tìm thấy ở đâu cả. Nhà thơ cố tĩnh tâm để lắng nghe âm thanh mơ hồ nhưng không cảm nhận được và nhà thơ đưa mắt nhìn sang một điểm mới.
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng bến cô liêu
Nhà thơ sử dụng nghệ thuật tả thực đối lập cảnh nắng xuống và trời lên để gợi lên sự chuyển động hai chiều của đất trời và nỗi buồn man mác trong tâm trạng nhà thơ. Đứng giữa một vùng bao la sông nước, đất trời, con người dường như nhỏ bé hơn, buồn hơn vô tận.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Hình ảnh gợi cho ta về cuộc đời lênh đênh. Không chốn bồng lai, không cầu, không thuyền đưa khách, khung cảnh ấy làm sao mà vơi đi nỗi buồn. Miêu tả cảnh ấy, tác giả thể hiện niềm khao khát đồng cảm với cuộc đời, khát khao thoát khỏi sự u uất của cuộc đời để có một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Sau khi nhìn quanh, nhà thơ hướng tầm nhìn ra vũ trụ và ông thấy hình ảnh đầu tiên của những đám mây, với từ “đùn” cho thấy chúng chồng lên nhau rất mạnh. Núi khi đó được ánh hoàng hôn chiếu rọi tạo nên một màu sắc lấp lánh mà nhà thơ gọi là “núi bạc”. Hình ảnh này tuy rực rỡ nhưng chứa đựng nỗi buồn của anh, như nỗi buồn của anh tích tụ như núi mây chứa hình cánh chim.
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Tác giả đã dùng từ “dợn dợn” để miêu tả những đợt sóng theo mặt nước lan ra trong chốc lát cho thấy nỗi nhớ nhà luôn thường trực trong anh và sẵn sàng lan tỏa khắp nơi.
Bài Tràng Giang đã thể hiện nỗi nhớ quê hương da diết của nhà thơ. Đứng trước cảnh thiên nhiên bao la, nhà thơ vừa giận cảnh mà lại yêu, đó chính là tình cảm chân thành đối với quê hương của nhà thơ. Với cách tiếp cận những vấn đề gần gũi với cuộc sống, Tràng Giang đã trở thành một sáng tác tiêu biểu của nền văn học Việt Nam.