Chế Lan Viên đã khắc họa tác phẩm “Tình ca ban mai” vô cùng nổi bật và sâu sắc, tác phẩm như một bản hòa tấu, ngân vang những giai điệu ngọt ngào, nồng ấm mà dịu êm giữa muôn vàn thanh điệu của bản ca tình yêu. Bài viết dưới đây cung cấp cho độc giả bài soạn tác phẩm Tình ca ban mai.
Mục lục bài viết
1. Trước khi đọc:
Câu 1 (trang 42, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Đọc trước bài thơ Tình ca ban mai và tìm hiểu thêm thông tin về nhà thơ Chế Lan Viên.
Lời giải chi tiết:
Nhà văn Chế Lan Viên, hay còn gọi là Phan Ngọc Hoan, sinh vào năm 1920 tại Cam Lộ, Quảng Trị. Ông lớn lên và theo học tại Quy Nhơn, Bình Định. Tư duy về việc viết thơ bắt đầu từ khi ông còn 12, 13 tuổi. Khi ông 17 tuổi, với bút danh Chế Lan Viên, ông tạo ra tập thơ đầu tiên “Điêu tàn”. Từ tác phẩm này, danh tiếng của ông vươn xa trong cộng đồng thơ Việt Nam.
Năm 1939, Chế Lan Viên học tại Hà Nội và sau đó đến Sài Gòn để làm báo và dạy học tại Thanh Hóa. Khi Cuộc cách mạng Tháng Tám bùng nổ, Chế Lan Viên tham gia vào phong trào cách mạng tại Bình Định và Thừa Thiên – Huế. Năm 1954, ông về Bắc và đảm nhận vị trí biên tập viên cho báo “Văn học”. Ông từng là Ủy viên Thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam, là đại biểu Quốc hội trong các kỳ IV, V, VI, VII; Ông cũng là thành viên Ban Văn hóa – Giáo dục của Quốc hội.
Trong sự nghiệp sáng tác, nhà văn Chế Lan Viên đã để lại nhiều tác phẩm quý giá thuộc nhiều thể loại, từ thơ, văn đến tiểu luận phê bình. Đáng chú ý là các tập thơ: “Điêu tàn”, “Ánh sáng và phù sa”, “Hoa ngày thường – Chim báo bão”, …
Câu 2 (trang 42, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Tìm đọc các bài thơ về tình yêu của Chế Lan Viên. Em có ấn tượng gì về những bài thơ ấy?
Lời giải chi tiết:
– Các bài thơ: Hoa tháng ba, Nhớ, Tình ca ban mai, Lòng anh làm bến thu.
Ấn tượng: Thơ tình của Chế Lan Viên mang một sắc thái khác biệt so với thơ tình của Xuân Diệu. Tình yêu ở đây không có các lời hẹn, không có hình ảnh “cầm điếu thuốc lá, cháy lụi dần” của Hồ Dzếnh, không có những câu hỏi thơ thẩn như “gặp em bên vườn hạnh, hỏi mãi mà em không trả lời” của Thái Can, và càng không có sự tỏ tình như các thi sĩ trẻ ngày nay. Thơ tình của Chế Lan Viên mang một phong cách kết hợp giữa ca dao của Nguyễn Trãi và vẻ đặc trưng của Trần Tế Xương, Tản Đà, và nhiều tác giả khác. Thông qua những tác phẩm thơ của mình, Chế Lan Viên tạo nên một thế giới nghệ thuật độc đáo, trong đó thời gian và không gian được thể hiện cụ thể, kết nối chặt chẽ với tâm hồn trữ tình của từng tác phẩm.
2. Trong khi đọc:
Câu 1 (trang 43, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Cách tổ chức khổ thơ có gì đặc biệt?
Lời giải chi tiết:
Cấu trúc của khổ thơ bao gồm 4 câu, được phân chia thành hai cặp câu. Các khoảng cách giữa hai cặp câu trong khổ thơ được tăng lên.
Câu 2 (trang 43, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Chú ý các từ chỉ thời gian trong bốn khổ thơ đầu.
Lời giải chi tiết:
– Từ ngữ chỉ thời gian: chiều, mai, trưa, khuya, ban mai.
→ Rất nhiều các từ ngữ chỉ thời gian, những khoảng thời gian khác nhau trong một ngày.
Câu 3 (trang 43, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Chú ý sự lặp lại hình ảnh trong các dòng thơ số 8 và 16.
Lời giải chi tiết:
– Dòng thơ số 8: Rải hạt vàng chi chít
– Dòng thơ số 16: Mọc sao vàng chi chít
→ Hình ảnh lặp lại: sao vàng mọc chi chít.
3. Sau khi đọc:
Câu 1 (trang 43, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Bài thơ có thể chia làm mấy phần? Vì sao?
Lời giải chi tiết:
– Bài thơ có thể chia làm 3 phần như sau:
+ Bốn khổ thơ đầu: Đã thể hiện vai trò to lớn của nhân vật trữ tình em. Em đến đem lại sức sống mới cho vạn vật trời đất, em về khiến loài chim vườn cất cánh đi, em ở nên trời cũng trong xanh thêm.
+ Bốn khổ thơ sau: Bức tranh thiên nhiên cuộc sống ở đoạn thơ trên đã lấy sự phủ định làm khẳng định, nhấn mạnh, củng cố sự vững chắc cho đoạn thơ.
+ Câu thơ cuối cùng: Miêu tả sự hạnh phúc khi em về.
Câu 2 (trang 43, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Hãy chỉ ra vai trò của một yếu tố tượng trưng đó trong việc thể hiện nội dung tác phẩm
Lời giải chi tiết:
Trong bài thơ, chúng ta có thể nhận diện nhiều yếu tố tượng trưng độc đáo như lộc biếc, hạt vàng, ban mai, hoa em, sao vàng và nhiều hình ảnh biểu tượng khác.
Việc sử dụng những hình ảnh biểu tượng này mang lại sự phong phú và sắc sảo cho bài thơ, giúp tạo nên một bức tranh sinh động và đầy cảm xúc.
Câu 3 (trang 44, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Những biến đổi của hình tượng “em” ở bốn khổ thơ đầu được so sánh với những khoảng thời gian trong một ngày và thiên nhiên. Phân tích ý nghĩa của cách biểu đạt này.
Lời giải chi tiết:
– Hình tượng “em” là hình tượng xuyên suốt cả đoạn thơ, qua đó, nổi trội trong bốn khổ thơ đầu. Những biến đổi của hình tượng “em” ở bốn khổ thơ đầu được đối chiếu với các mốc thời gian trong một ngày và thiên nhiên như sau:
“Em đi như chiều đi,
Gọi chim vườn bay hết.”
– Sự di chuyển không chỉ thuộc về em mà còn lan tỏa đến cảnh vật xung quanh. Em bước đi “như chiều về”, “tiếng chim đã bay đi xa”. Trên con đường đi, em mang theo một chút tia sáng cuối cùng của ngày dần qua.
“Em về, tựa mai về,
Rừng non xanh lộc biếc”
+ Khác với lúc em đi, khi em về tựa như ngày mai tới, tựa như ánh sáng ngày mới đã dần quay trở lại. Khi em về, mọi sự sống cũng bắt đầu đâm chồi nảy nở, rừng non cũng phải trổ lộc xanh biếc, hồi sinh mọi thứ.
“Em ở, trời chưa ở,
Nắng sáng màu xanh che”
+ Dưới con mắt của người đang yêu, khi “em về” và khi“em ở” có lẽ là khoảng thời gian đẹp nhất và hạnh phúc nhất. Em chính là ánh sáng đẹp nhất, chiếu sáng cảnh vật và tâm hồn anh.
“Tình em như sao khuya
Rải hạt vàng chi chít”
+ Tình em như sao khuya, tuy chỉ là những ngôi sao nhỏ bé trên bầu trời nhưng luôn sáng mãi và vô tận, không bao giờ có thể đếm được. Tình yêu ấy nhiều đến mức chi chít, là những ngôi sao vàng sáng không bao giờ lụi tàn.
Câu 4 (trang 44, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Sức mạnh của tình yêu đôi lứa (“tình ta”) được thể hiện như thế nào trong khổ thơ 6, 7 và 8?
Lời giải chi tiết:
Nếu như ở bốn khổ thơ trước ta chỉ thấy bóng dáng của “em” và “tình em” thì với bốn khổ thơ sau, ta lại thấy có sự thay đổi rõ rệt khi tác giả đã đưa câu chuyện tình cảm của đôi lứa lên một bước cao hơn đó là “tình ta”. Giờ đây tình yêu nam nữ đã được vẹn toàn, đã có đầy đủ cả anh và em.
Câu 5 (trang 44, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Khổ thơ cuối có khác biệt gì với các khổ thơ trước đó? Ý nghĩa của sự khác biệt này?
Lời giải chi tiết:
– Khổ thơ cuối rất khác biệt so với các khổ thơ trước đó:
+ Nếu các khổ thơ trước chỉ gồm hai câu thì ở khổ cuối chỉ có duy nhất một câu.
→ Mỗi khổ 2 dòng thơ thể hiện một cặp hình ảnh đối lập vào những thời khắc khác nhau trong ngày với những hình ảnh tượng trưng thể hiện các cung bậc tâm trạng trong tình yêu của tác giả. Còn dòng thơ ở khổ cuối đã giúp cho mỗi người thể hiện được niềm tin yêu và niềm hy vọng vào tình yêu.
Câu 6 (trang 44, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Em thấy thích nhất hình ảnh/ dòng thơ/ khổ thơ nào trong bài thơ? Vì sao?
Lời giải chi tiết:
Em thích nhất câu thơ:
“Em đi như chiều đi, Gọi chim vườn bay hết.”
Sự vận động không chỉ thuộc về em mà còn lan tỏa đến cảnh vật xung quanh.
Em đi “như chiều đi” để “chim vườn bay hết”. Đó là sự sống, là ánh sáng tạo nên mọi điều.
Em bước đi “đánh cắp” trong lòng anh niềm yêu thương và nỗi nhớ đong đầy.
Câu chữ mang theo khắc khoải và đọng đầy niềm thương nhớ “Em đi – như chiều đi”.
Em chính là trung tâm của sự sống. Khi vắng bóng em, anh chỉ còn niềm cô đơn che khuất tâm hồn. Mọi thứ trong tầm mắt anh mất đi ý nghĩa.
Có thể nói rằng từ câu đầu tiên, hình bóng của em đã đi sâu vào tâm trí anh. Khi em đi, nỗi nhớ đong đầy và da diết. Khi em trở lại, liệu anh có thấy vui không?
4. Phần mở rộng tác phẩm:
4.1. Tìm hiểu chung:
– Thể loại: Thơ
– Phương thức biểu đạt: Biểu cảm
– Hoàn cảnh xuất xứ của tác phẩm: Bài thơ “Tình ca ban mai” rút trong tập thơ Chế Lan Viên toàn tập.
– Tóm tắt tác phẩm: Chế Lan Viên đã khắc hoạ tác phẩm “Tình ca ban mai” một cách ấn tượng và sâu lắng, tác phẩm ví như một bản giao hưởng, ngân nga những giai điệu nhẹ nhàng, sâu lắng mà dịu êm giữa vô vàn giai điệu của bài ca tình yêu. “Tình ca ban mai” ngay từ nhan đề, bài thơ đã gợi sự ấm áp, ngọt ngào và sâu lắng. Bởi tác giả muốn khẳng định rằng đây không những là một bài thơ ca ngợi tình yêu đôi lứa, mà còn là một bài thơ thể hiện sự đam mê, cháy bỏng với khát vọng tình yêu của một thời tuổi trẻ tràn đầy sức sống. “Tình ca ban mai” là một khúc nhạc du dương cất lên từ những tiếng lòng thổn thức mà bồi hồi nỗi niềm yêu thương, của một tình yêu ngây thơ, hồn nhiên, trong trẻo, thuần khiết như những gì tinh khôi và tươi đẹp nhất của buổi sáng một sớm mai, của một trái tim luôn tin tưởng thiết tha vào sự trường tồn của thứ tình yêu trong sáng, tươi đẹp. Bóng dáng người thi sĩ Chế Lan Viên thấp thoáng ẩn hiện sau mỗi dòng thơ đong đầy nỗi niềm tâm tình rất đỗi chân thành, đó cũng là hình ảnh của một người đang yêu. Từng câu chữ, điều đong đầy sự chân thành. Với thiên phú cùng tài hoa của mình nhà thơ đã kết hợp một cách thành công và điêu luyện các thủ pháp nghệ thuật. Từ đó đã tạo nên một bản Tình ca bạn mai với sự khác biệt vô cùng đặc sắc, độc đáo.
4.2. Giá trị tác phẩm:
– Nội dung chính: Bài thơ Tình ca ban mai của Chế Lan Viên tạo hình ra những giai điệu êm dịu và ngọt ngào của một tình yêu, âm điệu tinh tế và nhẹ nhàng, thể hiện tình cảm mạnh mẽ của tuổi trẻ, là tình yêu của một trái tim trẻ trung, đầy tha thiết và tin tưởng vào tình yêu của cuộc sống.
– Nghệ thuật:
+ Sử dụng thể thơ 5 chữ độc đáo
+ Ngôn ngữ thơ giàu nhạc điệu và tinh tế
+ Ngòi bút uyên bác và tạo được cái riêng