Thao tác lập luận bác bỏ siêu ngắn (Soạn văn 11) là chuyên đề quan trọng đối với mỗi học sinh theo học môn Ngữ văn 11. Dưới đây là bài viết các bạn có thể tham khảo khi tiến hành Soạn bài Thao tác lập luận bác bỏ siêu ngăn (Soạn văn 11).
Mục lục bài viết
1. Câu 1 (trang 24 – 25 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
1.1. Mục đích, yêu cầu của thao tác lập luận bác bỏ:
– Mục đích: Dùng lí lẽ và dẫn chứng để phủ nhận những ý kiến sai trái, nhằm bảo vệ ý kiến, nhận định đúng đắn.
Mục đích ở đây là sử dụng logic và bằng chứng để phản bác những ý kiến sai trái, mọi nhận định không đúng hoặc thiếu thông tin cơ sở. Bằng cách này, ta có thể bảo vệ và thể hiện sự chính xác của ý kiến hoặc quan điểm đúng đắn mình đang ủng hộ.
– Yêu cầu:
+ Chỉ ra cái sai hiển nhiên của chủ thể phát ngôn (ý kiến, quan điểm, nhận định): Đây là việc xác định những điểm sai trái mà người khác đã đưa ra trong lập luận của họ. Điều này có thể liên quan đến sai sót về dữ liệu, logic, hoặc quan điểm chưa thấu hiểu đầy đủ vấn đề.
+ Dùng lí lẽ và dẫn chứng khách quan, trung thực để bác bỏ các ý kiến, nhận định sai trái: Khi bác bỏ, bạn cần sử dụng lý thuyết logic và dẫn chứng cụ thể để chứng minh rằng những ý kiến sai trái đó không chính xác. Điều này thể hiện tính khoa học và chất lượng của lập luận.
+ Có thái độ thẳng thắn, có văn hoá tranh luận và có sự tôn trọng người đối thoại, tôn trọng bạn đọc: Trong quá trình bác bỏ, cách diễn đạt và thái độ rất quan trọng. Cần duy trì sự tôn trọng và tư duy mở cửa trong quá trình tranh luận, tránh các thái độ quá khích, nhằm tạo ra không gian tranh luận lành mạnh và xây dựng.
Tóm lại, phân tích các ý kiến sai trái đòi hỏi sự tập trung vào phát hiện cái sai và sử dụng logic, dẫn chứng để bác bỏ. Quá trình này cần diễn ra trong một môi trường lịch sự và tôn trọng, để xây dựng sự thấu hiểu và hợp tác trong cuộc tranh luận
1.2. Câu 1 (trang 24 – 25 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
a. Trong việc bác bỏ ý kiến của ông Nguyễn Bách Khoa rằng “Nguyễn Du là một con bệnh thần kinh,” ông Đinh Gia Trinh sử dụng phương pháp so sánh trí tưởng tượng của Nguyễn Du với trí tưởng tượng của các thi sĩ nước ngoài. Luận cứ được đưa ra để bác bỏ là:
– Luận cứ 1: Di bút của Nguyễn Du: Ông Đinh Gia Trinh so sánh di bút của Nguyễn Du với các thi sĩ nước ngoài, ví dụ như Shakespeare, Goethe, Dante. Trong đó, ông lưu ý đến tầm vóc quốc tế của những tác phẩm của Nguyễn Du như “Truyện Kiều” có thể so sánh với các tác phẩm của các thi sĩ nổi tiếng khác. Ông giải thích rằng việc so sánh này chứng minh trí tưởng tượng của Nguyễn Du không thể được coi là “bệnh thần kinh.”
– Luận cứ 2: Khiếu ảo giác của Nguyễn Du: Ông Đinh Gia Trinh phân tích khiếu ảo giác của Nguyễn Du thông qua các hình ảnh thơ trong “Truyện Kiều.” Ông chỉ ra rằng khả năng sáng tạo hình ảnh và biểu cảm của Nguyễn Du không chỉ chứng minh sự “sức khỏe tinh thần” của ông mà còn bác bỏ ý kiến ông Nguyễn Bách Khoa.
Trong quá trình lập luận bác bỏ, ông Đinh Gia Trinh sử dụng các câu tường thuật để trình bày luận điểm, kết hợp với câu cảm thán và câu hỏi tu từ để tạo sự thuyết phục. Ông cũng sử dụng biện pháp so sánh với các tên tuổi thi sĩ nước ngoài để thể hiện tầm quốc tế và tầm vóc của tác phẩm của Nguyễn Du.
b. Trong việc bác bỏ ý kiến cho rằng “Tiếng Việt nghèo nàn,” ông Nguyễn An Ninh sử dụng phương pháp so sánh giữa hai nền văn học Việt Nam và Trung Quốc để bác bỏ ý kiến sai trái đó. Ông lập luận bằng cách khẳng định ý kiến sai trái này không có cơ sở và so sánh sự phong phú, đa dạng và tiềm năng của tiếng Việt với tiếng Trung. Bằng cách này, ông tạo ra câu hỏi tu từ để khẳng định giá trị của tiếng Việt và bác bỏ quan niệm sai trái.
c. Trong việc bác bỏ quan niệm “Tôi hút, tôi bị bệnh, mặc tôi,” ông Nguyễn Khắc Viện sử dụng phương pháp phân tích tác hại đầu độc môi trường của những người hút thuốc lá gây ra cho những người xung quanh để thể hiện lập luận của mình. Bằng cách này, ông phân tích tác hại của hút thuốc lá không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe cá nhân mà còn ảnh hưởng đến môi trường xung quanh, từ đó bác bỏ quan điểm “mặc tôi” trong việc hút thuốc lá.
2. Câu 2 (trang 20 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Trong việc bác bỏ một luận điểm, luận cứ hoặc lập luận, chúng ta có thể sử dụng các phương pháp khác nhau để chỉ ra những sai lầm, thiếu chính xác hoặc khía cạnh sai lệch của luận điểm đó. Có thể thông qua việc nêu ra các tác hại và nguyên nhân, hoặc phân tích sâu hơn các khía cạnh không chính xác, thiếu chứng cứ.
Trong quá trình bác bỏ, quan trọng là giữ thái độ khách quan và đúng mực. Điều này đảm bảo rằng quan điểm của chúng ta dựa trên sự phân tích, chứng minh và lập luận logic thay vì dựa trên cảm xúc hoặc quan điểm cá nhân. Thái độ này càng thể hiện tính chuyên nghiệp và sự tôn trọng đối với quan điểm của người khác.
Tóm lại, việc bác bỏ một luận điểm cần sử dụng các phương pháp lập luận hợp lý, dựa trên sự phân tích chính xác và khách quan.
3. Bài tập luyện tập:
3.1. Câu 1 (trang 26 – 27 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
a/ Bác bỏ: “Đổi cứng thành mềm” của kẻ sĩ cơ hội cầu an.
Lý lẽ: Quan điểm “Kẻ sĩ chỉ lo lắng không cứng cỏi được, còn gãy hay không là việc của trời” thể hiện một sự thiếu trách nhiệm và sự thụ động. Việc chỉ lo lắng mà không nỗ lực để thay đổi, cải thiện bản thân chẳng qua là một cách để tránh trách nhiệm và tự chối làm việc. Thay vì dựa vào trời, con người nên chủ động vận dụng nỗ lực và ý chí để thay đổi và phát triển.
Dẫn chứng: Sự thành công của nhiều người trong lịch sử như Ngô Tử Văn đã chứng minh rằng sự cứng cỏi không nhất thiết dẫn đến gãy gọn. Ngô Tử Văn đã thể hiện tính cách kiên trì, quyết tâm và đạo đức trong cuộc sống và công việc của mình, và điều này đã được vinh danh bằng việc phong thưởng.
b/ Bác bỏ: “Thơ là những lời đẹp”.
Dẫn chứng: Có rất nhiều ví dụ trong lịch sử văn học chỉ ra rằng thơ không nhất thiết phải dùng lời văn đẹp để thể hiện ý nghĩa và sự sâu sắc. Thơ Hồ Xuân Hương, người được biết đến với sự tinh tế trong ngôn từ, thường sử dụng ngôn ngữ mỉa mai, hài hước và không hề “đẹp” theo nghĩa truyền thống. Nguyễn Du qua “Truyện Kiều” đã tạo nên một kiệt tác thơ với nội dung lớn và sâu sắc, không chỉ dựa vào vẻ đẹp của từ ngữ. Còn thơ kháng chiến chống Pháp thường thể hiện sự tức giận, quyết tâm và ý chí mạnh mẽ hơn là lời văn đẹp.
Tóm lại, trong quá trình bác bỏ, cần lựa chọn thái độ và giọng văn phù hợp để thể hiện một lập luận logic và có cơ sở.
3.2. Câu 2 (trang 27 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Quan niệm sai về việc kết bạn, đặc biệt liên quan đến việc kết bạn với những người học yếu, thường xuất phát từ một số quan điểm không chính xác. Dưới đây, tôi sẽ bác bỏ quan niệm sai này và thể hiện tại sao kết bạn với những người học yếu không phải là một trách nhiệm không đáng có.
Một trong những quan điểm sai lầm phổ biến là nghĩ rằng học yếu là dấu hiệu của thói xấu. Thực tế, học yếu không phải lúc nào là do thói xấu. Học yếu có thể xuất phát từ những nhược điểm chủ quan hoặc khách quan trong quá trình học tập. Mỗi người có điểm mạnh và yếu riêng, và việc học yếu không thể trực tiếp dẫn đến việc có thói xấu.
Quan điểm đúng đắn hơn là thấu hiểu và giúp đỡ những người học yếu. Kết bạn với họ không chỉ là một trách nhiệm mà còn là một cơ hội để chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm học tập và tạo ra môi trường học tập tích cực. Thay vì đánh giá và phê phán, chúng ta có thể thúc đẩy sự cải thiện bằng cách chia sẻ kiến thức, hỗ trợ trong việc giải quyết khó khăn học tập.
Nếu chúng ta nhìn vào nguyên nhân, ta sẽ thấy rằng quan điểm sai này dẫn đến việc tạo ra một tầm nhìn hạn chế về học tập và xã hội. Nếu tiếp tục duy trì quan điểm này, chúng ta có thể làm tổn thương tinh thần và lòng tự trọng của những người học yếu, cản trở họ trong việc phát triển.
Vậy thay vì áp đặt quan điểm sai lầm, chúng ta nên tạo ra môi trường học tập cởi mở và khuyến khích sự phát triển của tất cả mọi người. Việc kết bạn với những người học yếu có thể giúp họ vượt qua khó khăn, phát huy tiềm năng và xây dựng một cộng đồng học tập tích cực. Hãy tìm cách tạo điều kiện cho mọi người tỏa sáng thay vì giữ lại những quan điểm hạn chế.