Soạn bài Qua đèo ngang - Ngữ văn 8 Sách Kết nối tri thức ngắn nhất mà vẫn đủ ý được biên soạn bám sát sách Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức giúp học sinh soạn văn 8 dễ dàng hơn. Cùng tham khảo nhé.
Mục lục bài viết
1. Soạn bài Qua đèo ngang – Ngữ văn 8 Sách Kết nối tri thức:
Câu 1: Đề tài, thể thơ và bố cục bài thơ
– Đề tài: Thiên nhiên và quê hương
– Thể thơ: Thất ngôn bát cú
– Bố cục bài thơ :
Phần 1 (hai câu đề): Cảnh vật Đèo Ngang buổi chiều tà
Phần 2 (hai câu thực): Cuộc sống của con người ở Đèo Ngang
Phần 3 (hai câu luận): Tâm trạng của tác giả
Phần 4 (hai câu kết): Nỗi cô đơn đến tột cùng của tác giả
Câu 2. Các yếu tố thời gian, không gian, âm thanh, đồ vật được sử dụng để mô tả bức tranh thiên nhiên.
– Thời gian: buổi chiều
– Không gian: Đèo Ngang
– Âm thanh: con quốc quốc, cái gia gia
– Sự vật: Cỏ cây chen đá, lá chen hoa, chú tiều, chợ bên sông, con quốc quốc, cái gia gia, trời, non, nước.
Câu 3. Cảm xúc, tâm trạng của nhà thơ
– Tiếng chim quốc, chim gia gia: nghệ thuật lấy động tả tĩnh; chơi chữ. – Tiếng chim quốc, chim gia gia nhớ quê hương và yêu thương gia đình, cũng là tiếng nói của chính tác giả, người vô cùng nhớ quê hương, nhớ quê hương, nhớ một quá khứ vương giả của đất nước.
⇒ Nỗi nhớ quê hương, nhớ nhà của tác giả. Đó cũng chính là tâm trạng hoài niệm của nữ nghệ sĩ. Đồng thời đó cũng là tâm trạng cô đơn, tĩnh lặng, một mình đối mặt với chính mình trong vũ trụ bao la
Câu 4. Tác dụng của các từ tượng hình, từ tượng thanh và biện pháp tu từ đảo ngữ.
– Hình tượng: khom lưng, nheo mắt
– Từ tượng thanh: quốc quốc, gia gia
=> Tác dụng:
Làm cho bài thơ giàu tính biểu cảm, từ hình tượng chiếc mũi cho đến cảnh ngang thưa thớt, từ biểu tượng âm thanh đến thể hiện nỗi nhớ quê hương, bệnh viện của tác giả, từ đó bộc lộ những tình cảm yêu nước thầm kín của nhà thơ.
2. Tìm hiểu về tác giả tác phẩm Qua đèo ngang:
2.1. Tác giả:
– Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, sống ở thế kỷ 19, không rõ năm sinh và mất.
– Quê quán: thôn Nghi Tàm, nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội
– Chồng bà làm Huyện trưởng Thanh Quan (thuộc Thái Ninh), tỉnh Thái Bình nên có tên Huyện Thanh Quan
– Bà là một trong những nữ thi sĩ tài hoa thời xưa, còn để lại sáu bài thơ.
– Thơ của bà thể hiện tình yêu đối với cảnh quan thiên nhiên, đất nước và nỗi buồn trước sự đổi thay. Mọi tác phẩm của cô đều mang đậm chất buồn, thanh thoát và vô cùng điêu luyện
2.2. Tác phẩm:
– Hoàn cảnh ra đời
Bài thơ được sáng tác khi bà đang trên đường từ Bắc Hà vào Huế nhận chức vụ “Cung Trung giáo tập”
– Bố cục (4 phần
Phần 1 (hai câu đề): Cái nhìn chung về cảnh vật Đèo Ngang
Phần 2 (hai câu thực): Cuộc sống của con người ở Đèo Ngang
Phần 3 (hai câu luận): Tâm trạng của tác giả
Phần 3 (hai câu kết): Nỗi cô đơn đến tột cùng của tác giả
– Nội dung:
Bài thơ “Qua đèo ngang” thể hiện khung cảnh đèo Ngang thoáng đãng, xa xôi, thoáng qua cuộc sống con người nhưng vẫn còn hoang sơ. Đồng thời, nó thể hiện nỗi nhớ quê hương, tình yêu quê hương, nỗi buồn lặng lẽ, nỗi cô đơn của tác giả
– Nghệ thuật:
Thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật
Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình
Sử dụng từ láy gợi hình gợi cảm và nghệ thuật đối lập, đảo ngữ
3. Phân tích tác phẩm Qua đèo ngang:
Bà Huyện Thanh Quan là một trong những nhà văn nữ nổi tiếng của văn học trung đại Việt Nam. Thơ và tác phẩm của bà để lại cho hậu thế không nhiều, trong đó nổi tiếng nhất là bài Qua đèo Ngang. Đây là bài thơ tả cảnh ngụ tình rất độc đáo, bộc lộ nỗi niềm, tâm trạng của bà khi trên đường vào kinh đô Huế nhậm chức. Mở đầu bài thơ là bức tranh phong cảnh thấm đẫm nỗi buồn và cô đơn:
“Bước đến đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”
Hai câu thơ mở ra không gian và thời gian nghệ thuật quen thuộc trong thơ trung đại, đây cũng là phong cách đặc trưng của Bà Huyện Thanh Quan: chiều tà và bóng hoàng hôn. Thời gian là buổi chiều nhưng không phải là lúc đầu hôm mà là buổi chiều tà, đó là thời khắc chuyển giao giữa chiều và tối, ánh nắng chỉ yếu ớt rồi lặn. Không gian mênh mông, rộng lớn, có trời, núi, nước nhưng tất cả đều im lìm, tĩnh lặng cho đến đêm.
Trong không gian đó, hình ảnh cây cối và hoa cỏ hiện lên có phần hoang dã, chúng chen chúc nhau để sinh sôi. Từ “chen” gợi lên sức sống của muôn loài trước cái cằn cỗi của đất đai, sự khắc nghiệt của thời tiết. Đồng thời từ này cũng gợi lên thiên nhiên có phần hoang dã và hỗn loạn. Không gian và thiên nhiên, cây cỏ hòa quyện vào nhau, càng làm tăng thêm ấn tượng về vùng đất hoang vu. Bức tranh điểm xuyết hơi thở và sự sống của con người:
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
Những tưởng là khi có sự xuất hiện của con người, quang cảnh sẽ bớt tĩnh mịch và cô đơn, nhưng thực tế lại không phải vậy. Sự xuất hiện của con người trái lại càng khiến quang cảnh trở nên hoang vắng và tĩnh mịch hơn. Nghệ thuật đảo ngữ nhấn mạnh vào dáng người “lom khom” của những chú tiều, cái “lác đác” của những ngôi nhà ven sông, kết hợp với những từ ngữ định lượng ít ỏi “vài”, “mấy” khiến cho hình bóng con người vốn đã nhỏ bé lại càng nhỏ bé hơn, cuộc sống vốn đã hiu quạnh lại càng hoang vắng hơn.
Bức tranh về thế giới cô liêu đơn độc của bà rõ nét hơn bao giờ hết. Nhìn lại cả hai câu thơ, ta thấy chúng có đầy đủ các yếu tố của một cảnh đẹp như bức tranh: núi, sông, tiều phu, chợ búa. Tuy nhiên, khi các yếu tố này kết hợp lại và khúc xạ qua nhận thức của nhà thơ lại gợi lên một miền sơn cước hoang vắng, cô đơn.
Bốn câu thơ cuối thể hiện cảm xúc và suy nghĩ của tác giả:
“Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”.
Tiếng chim cuốc kêu cũng là nỗi đau của Bà Huyện Thanh Quan. Tài năng sử dụng từ ngữ của bà đã đạt đến trình độ điêu luyện: chữ “quốc” có nghĩa là “đất nước” đồng âm với từ “cuốc” có nghĩa là “chim”, từ “gia” có nghĩa là “nhà” tương tự như từ “gia” có nghĩa là “đa đa”.
Không chỉ vừa ghi âm thanh mà đồng thời còn bộc lộ tâm trạng, ý tứ của tác giả, qua đó làm nổi bật tâm trạng và cảm xúc của nữ thi sĩ. Vì phải rời xa quê hương, đến một vùng đất mới để lập nghiệp, bà nhớ nhà, nhớ gia đình. Nhớ quê hương có nghĩa là bà đang nhớ lại quá khứ huy hoàng của triều đại xưa. Hai chữ nhớ nước, thương nhà được đảo ngược vào đầu câu, khiến câu chữ càng thêm mạnh mẽ, làm nổi bật tâm trạng của bà.
Hai câu thơ cuối trực tiếp diễn tả nỗi niềm cô đơn, lo âu của nhà thơ:
“Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”.
Không gian mênh mông khiến con người càng trở nên nhỏ bé, cô đơn. Vạn vật vốn dĩ hòa quyện, kết nối với nhau nhưng thực chất lại tách biệt từng đôi, trời, núi, nước cách nhau bằng dấu phẩy, đó là góc nhìn cảm xúc của chính tác giả.
Câu thơ cuối như lời khẳng định trực tiếp nỗi đau cô đơn của nhà thơ “một mảnh tình” “ta với ta”. Đại từ “ta” không còn mang ý nghĩa chung, cộng đồng nữa mà mang ý nghĩa cá nhân, chỉ là tác giả. Ở hai câu thơ cuối, mọi thứ đều là sự ngắt quãng, một thế giới riêng biệt, hoàn toàn cô đơn.
Như vậy, đọc bài thơ “Qua Đèo Ngang”, chúng ta không chỉ ấn tượng bởi bởi nghệ thuật điêu luyện, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa thơ cổ điển và văn học dân gian, mà còn bị thu hút bởi nội dung. Bức tranh phong cảnh đèo Ngang hiu quanh, mênh mông diễn tả nỗi buồn, nỗi nhớ quê hương, đất nước của tác giả.