Soạn bài Ngữ cảnh thuộc môn Ngữ văn lớp 11 học kỳ 1. Bài soạn dưới đây được sưu tầm và giới thiệu với các bạn để tham khảo về khái niệm, các yếu tố làm nên ngữ cảnh, đặc điểm của ngữ cảnh giúp học tập tốt môn Ngữ Văn lớp 11 chuẩn bị cho bài giảng sắp tới đây của mình.
Mục lục bài viết
1. Kiến thức trọng tâm về ngữ cảnh:
Ngữ cảnh là bối cảnh ngôn ngữ trong đó các yếu tố ngôn ngữ được sử dụng hoặc tạo ra trong giao tiếp ngôn ngữ, đồng thời người nghe (người đọc) lĩnh hội lời nói, câu văn dựa trên ngữ cảnh đó.
1.1. Nhân vật giao tiếp:
– Bao gồm người nói, người nghe và người đọc.
– Mỗi nhân vật giao tiếp đều có những đặc điểm về nhiều mặt, bao gồm tuổi tác, giới tính, dân tộc, nghề nghiệp, tính cách, địa vị xã hội, các mối quan hệ xã hội và nơi cư trú.
– Những đặc điểm này luôn chi phối lời nói của một cá nhân và ảnh hưởng đến sự lĩnh hội lời nói của người khác.
1.2. Bối cảnh ngoài ngôn ngữ:
– Bối cảnh giao tiếp rộng: đó là bối cảnh xã hội, lịch sử, địa lý, phong tục, tập quán, thể chế chính trị, v.v. ở bên ngoài ngôn ngữ. Những yếu tố này định hình môi trường giao tiếp, ảnh hưởng đến cả người nói và người nghe, cũng như quá trình tạo lập và lĩnh hội lời nói và câu văn.
– Bối cảnh giao tiếp hẹp: thời gian cụ thể, địa điểm cụ thể, hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.
– Hiện thực được nói tới: Tạo nên đề tài nghĩa sự việc cho câu nói. Đối với từ ngữ, hiện thực được nói tới tạo ra ý nghĩa tượng trưng, là cơ sở cho việc quy chiếu của từ ngữ.
1.3. Văn cảnh:
– Chứa các yếu tố ngôn ngữ cũng có mặt trong văn bản, đi trước và đi sau một ngôn ngữ nào đó.
– Văn cảnh có sẵn cho cả dạng ngôn ngữ viết và dạng ngôn ngữ nói, và cho cả văn bản đơn âm và văn bản đối thoại.
1.4. Vai trò của ngữ cảnh:
– Đối với người nói (người viết) và quá trình sinh sản lời nói, câu văn: Ngữ cảnh chính là môi trường trong đó lời nói và câu văn được phát sinh.
– Đối với người nghe (người đọc) và quá trình lĩnh hội lời nói, câu văn: Ngữ cảnh là cơ sở, căn cứ để lĩnh hội lời nói, câu văn và hiểu được nội dung, ý nghĩa, mục đích của lời nói, câu văn.
2. Soạn bài ngữ cảnh, bài tập về ngữ cảnh Trang 106 sgk ngữ văn 11 tập 1:
2.1. Đề bài:
Câu 1 (Trang 106 sgk ngữ văn 11 tập 1)
Căn cứ vào ngữ cảnh, hoàn cảnh sáng tác, hãy phân tích những chi tiết được miêu tả trong hai câu sau:
Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa; mùi tinh chiến vây vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
(Nguyễn Đình Chiểu, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Câu 2 (trang 106 sgk ngữ văn 11 tập 1)
Xác định hiện thực được nói tới trong hai câu thơ:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
(Hồ Xuân Hương, Tự tình – bài II)
Câu 3 (trang 106 sgk ngữ văn 11 tập 1)
Vận dụng hiểu biết về ngữ cảnh để lí giải những chi tiết về hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Tú Xương.
Câu 4 (trang 106 sgk ngữ văn 11 tập 1)
Đọc những câu thơ sau trong bài thơ Vịnh khoa thi Hương của Tú Xương và cho biết những yếu tố nào trong ngữ cảnh đã chi phối nội dung của những câu đó.
– Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
– Lộng cắm rợp trời quan sứ đến,
Váy lê quét đất mụ đầm ra.
Câu 5 (Trang 106 sgk ngữ văn 11 tập 1)
Trên đường đi, hai người không quen biết gặp nhau, một người hỏi “Thưa bác, bác có đồng hồ không ạ?” Trong ngữ cảnh đó, câu hỏi cần được hiểu như thế nào? Nhằm mục đích gì?
2.2. Soạn bài:
Câu 1 (Trang 106 sgk ngữ văn 11 tập 1)
Trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc có viết:
“Tiếng hạc phập phồng … nhà nông ghét cỏ.
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp”
– Câu văn xuất phát từ bối cảnh: tin tức về địch đã đến phong thanh 10 tháng này, lệnh quan không thấy đâu.
– Người nông dân thấy sự nhơ bẩn của kẻ thù và căm thù chúng.
Câu 2 (trang 106 sgk ngữ văn 11 tập 1)
– Hai câu thơ gắn với những ngữ cảnh giao tiếp cụ thể:
+ Nửa đêm, tiếng trống canh dồn dập, người phụ nữ một mình trơ trọi
+ Hoàn cảnh là nội dung thể hiện chủ đề của câu thơ
+ Ngoài tình huống, câu thơ còn bộc lộ cảm xúc của nhân vật trữ tình.
Câu 3 (trang 106 sgk ngữ văn 11 tập 1)
Từ hoàn cảnh về cuộc sống của Tú Xương
– Bà Tú là người vợ đảm đang, chịu thương chịu khó làm ăn nuôi chồng con.
– Bà Tú kiếm sống bằng nghề buôn bán nhỏ
– Những chi tiết về hoàn cảnh gia đình Tú Xương làm bối cảnh cho nội dung trong bài thơ.
+ Tác giả dùng thành ngữ “một duyên hai nợ” (thân phận, nỗi khổ nuôi dạy con của bà Tú) để miêu tả số phận con người.
Câu 4 (trang 106 sgk ngữ văn 11 tập 1)
– Bối cảnh: Vào Năm Đinh Dậu (1897), chính quyền mới do thực dân Pháp dựng lên bắt sĩ tử Hà Nội xuống thi trong trường thi Nam Định.
Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà
– Trong khoa thi Hương của năm Đinh Dậu, Toàn quyền Pháp ở Hà Nội là Đu- me đã cùng vợ đến dự:
Váy lọng rợp trời quan sứ đến
Váy lê quét đất mụ đầm ra
Câu 5 (Trang 106 sgk ngữ văn 11 tập 1)
– Bài tập này thể hiện một tình huống giao tiếp trong phạm vi hẹp: Khi đi trên đường mà không quen biết nhau, người ta thường không hay đột ngột hỏi về những chủ đề riêng tư mà chỉ hỏi về những câu chuyện khách quan.
– Câu hỏi trong tình huống trên thực ra nên hiểu là người qua đường muốn hỏi về giờ chứ không phải về đồng hồ.
Ý nghĩa:
– Ngữ cảnh là bối cảnh ngôn ngữ tạo cơ sở cho việc sử dụng từ và tạo lập lời nói, cũng như làm căn cứ để lĩnh hội thấu đáo lời nói.
– Ngữ cảnh bao gồm các Bối cảnh giao tiếp, ngữ cảnh rộng và ngữ cảnh hẹp, hiện thực được đề cập và văn cảnh.
– Bối cảnh đóng một vai trò quan trọng trong cả việc tạo lập lời nói và lĩnh hội lời nói.
3. Soạn bài ngữ cảnh, bài tập về ngữ cảnh (Soạn văn lớp 11) trang 102 SGK Ngữ văn 11 tập 1:
Câu 1 trang 102 SGK Ngữ văn 11 tập 1:
– Câu nói “Giờ muộn thế này mà họ chưa ra nhỉ?” là một câu nói vu vơ vì không thể xác định được.
– Nhân vật giao tiếp: người nói, người nghe, địa vị xã hội, quan hệ người nói – người nghe.
– Thời gian và không gian giao tiếp câu này mơ hồ.
– Đối tượng được nói đến: Từ “họ” không được xác định rõ ràng vì đây là danh từ chỉ một số người, một nhóm người chung chung.
– Thời điểm của sự phủ định: “chưa ra” tính từ thời điểm phủ định.
– Câu “giờ muộn thế này”: không thể nói chính xác mấy giờ là muộn với người đang nói câu này.
Câu 2 trang 102 SGK Ngữ văn 11 tập 1:
Câu ở ngữ liệu khi đặt trong văn bản là câu xác định vì những lý do sau:
– Nhân vật xác định: Câu này là câu của chị Tý.
– Xác định thời gian và không gian: Buổi tối ở nơi phố huyện nhỏ.
– Đối tượng được nhắc đến được xác định: họ – mấy người phu gạo hay phu xe hay những người lính lệ.
– Thời gian của sự phủ định: tính từ chiều tối
=> Nhờ có ngữ cảnh trên mà ta mới hiểu được ý nghĩa câu nói của chị Tí.
4. Rèn kĩ năng:
Những yếu tố làm nên ngữ cảnh của cuộc giao tiếp trong trích đoạn tuồng Đổng Mẫu.
Văn cảnh là cuộc đối thoại giữa các nhân vật về việc ép Đổng Mẫu hàng họ Tạ.
Các tình huống giao tiếp bao gồm:
– Dưới triều nhà Tề ở Trung Quốc, trong phủ họ Tạ.
– Các nhân vật giao tiếp được chia thành hai phe. Bên chính nghĩa là Đổng Mẫu, Đổng Kim Lân (mối quan hệ thân sơ là mẹ con), và bên phi nghĩa là Hổ Bôn, Lôi Nhược, Ôn Đình (mối quan hệ vị nghĩa – anh em, thân sơ – chủ tớ). Hai phe đang ở thế tranh chấp, đối nghịch nhau. Khi nội dung của câu chuyện tiến triển, cách nói và cách xưng hô của các nhân vật cũng sẽ thay đổi.
– Tình huống giao tiếp: Thái sư Tạ Thiên Lăng cướp ngôi vua Tề, nhưng Đổng Kim Lân không chịu khuất phục. Anh em Tạ Thiên Lăng ra lệnh bắt mẹ Kim Lâm bắt chàng phải khuất phục. Tuy nhiên, Đổng Mẫu không chịu khuất phục, bà thà hịu chết chứ không chịu để con trai đầu hàng giặc Tạ.
Cách xưng hô của nhân vật trong đoạn trích Cha tôi của Đặng Huy Trứ có sự thay đổi khi sang trọng khi thân mật là do ngữ cảnh đối thoại quy định.
Khi cùng một nhân vật tham gia vào các cuộc giao tiếp khác nhau (chủ thể giao tiếp khác nhau, nội dung giao tiếp khác nhau, mục đích giao tiếp khác nhau, bối cảnh khác nhau…) thì sẽ có vị thế giao tiếp khác nhau.
Vì vậy, xưng hô của nhân vật nên linh hoạt điều chỉnh theo tình huống. Chẳng hạn, khi công bố kết quả thi, các sĩ từ gọi Đặng Văn Trọng là tiên sinh. bởi vì quan hệ giữa các sĩ tử và Đặng Văn Trọng là quan hệ đồng môn, và Đặng Văn Trọng lớn tuổi hơn và là người có tài. Cách gọi này thể hiện sự tôn trọng của những sĩ tử đối với ông.