Yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự có vai trò quan trọng trong việc xây dựng nội dung và tạo nên tính khúc chiết, mạch lạc của câu chuyện. Dưới đây là mẫu soạn bài Nghị luận trong văn bản tự sự - SGK Ngữ văn lớp 9 chuẩn nhất, mời bạn đọc cùng đón xem.
Mục lục bài viết
1. Tìm hiểu yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự:
1.1. Đọc các đoạn văn:
a. Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thương… Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất. Tôi biết vậy, nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận.
(Nam Cao, Lão Hạc)
b.
Thoắt trông nàng đã chào thưa:
“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan!
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều”
Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,
Khấu đầu dưới trướng, liệu điều kêu ca.
Rằng: “Tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.
Nghĩ cho khi gác viết kinh,
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.
Lòng riêng riêng những kính yêu,
Chồng chung chưa dễ ai nhường cho ai.
Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”.
Khen cho: “Thật đã nên rằng,
Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời.
Tha ra, thì cũng may đời,
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.”
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
1.2. Những câu, chữ thể hiện rõ tính chất nghị luận trong hai đoạn trích. Nội dung và vai trò của yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự:
a. Những câu, chữ thể hiện rõ tính chất nghị luận trong hai đoạn trích :
Đoạn (a) : Đoạn trích “Lão Hạc” :
…nếu ta không cố tình hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến cái gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ đến ai được nữa. Trích đoạn này cho thấy tính chất nghị luận rõ ràng, khi nhân vật trong truyện nhấn mạnh rằng nếu chúng ta không cố tình hiểu người khác, chúng ta chỉ nhìn thấy những khía cạnh tiêu cực của họ. Cùng với đó, ví dụ về người đau chân cũng minh họa rằng khi một người khổ sở đến mức đau đớn, thì họ không còn nghĩ đến ai khác nữa. Đây là một lập luận sâu sắc về tính chất nghị luận và khả năng hiểu biết của con người.
Đoạn (b) : Lập luận trong đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán.
*Lập luận của Kiều là những lời mỉa mai đay nghiến (xưa nay đàn bà ghê gớm, cay nghiệt càng chuốc nhiều oan trái) :
“Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan !
Dễ dàng là thói hồng nhan,”
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều. Trích đoạn này cho thấy tính chất nghị luận sắc bén của nhân vật Kiều, khi cô bày tỏ sự không hài lòng và mỉa mai đàn bà, cho rằng họ là nguyên nhân gây ra nhiều oan trái trong cuộc sống. Lập luận này không chỉ tập trung vào việc chỉ trích đàn bà, mà còn nhấn mạnh tính hệ thống và phổ biến của những vấn đề này trong xã hội.
*Lập luận của Hoạn Thư :chuyển từ tội hại người thành tội ghen tuông thường tình, từng tha khi Kiều chạy trốn,… nhận lỗi, xin sự rộng lượng khoan hồng :
Rằng : “Tôi chút phận đàn bà
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng” Trích đoạn này thể hiện sự chuyển đổi trong lập luận của nhân vật Hoạn Thư, khi anh ta nhận lỗi và xin sự rộng lượng từ người khác. Từ việc trách móc người khác, Hoạn Thư đã nhìn nhận và chấp nhận trách nhiệm của mình. Lập luận này đặt mình vào tình huống của nhân vật và tìm cách giải quyết vấn đề bằng cách nhận lỗi và mong sự tha thứ.
b. Nội dung và vai trò yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự : Yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự có vai trò quan trọng trong việc xây dựng nội dung và tạo nên tính khúc chiết, mạch lạc của câu chuyện. Sử dụng các yếu tố nghị luận như lập luận, biện minh, mỉa mai… giúp tăng tính triết lí cho câu chuyện và làm nổi bật tính cách của nhân vật. Từ đó, văn bản tự sự trở nên sâu sắc, giàu cảm xúc và gợi cảm hứng cho người đọc. Yếu tố nghị luận cũng giúp thể hiện quan điểm và ý kiến của tác giả, đồng thời khơi gợi sự suy nghĩ và tranh luận của độc giả về các vấn đề trong câu chuyện.
2. Lời văn trong đoạn trích (a) mục I.1 là lời của ai? Người ấy đang thuyết phục ai? Thuyết phục điều gì?
Lời văn trong đoạn trích (a), thuộc mục I.1, là lời của ông giáo, người đang cố gắng thuyết phục chính mình về tính chất của vợ ông. Ông giáo đưa ra lập luận rằng vợ ông không phải là một người ác, mà chỉ là một người buồn bã và đau khổ. Ông nhấn mạnh rằng tình cảm của vợ ông không mang tính chất giận dữ hay tức giận, mà chỉ là một cảm xúc buồn rầu và đau đớn trong lòng. Ông giáo cho rằng vợ ông không có ý định trách móc hay tức giận ông, mà chỉ mang trong mình một nỗi thương tâm sâu sắc. Qua đó, ông muốn chứng minh rằng vợ ông không chỉ buồn bã mà còn có sự kiềm chế và không tỏ ra tức giận ra ngoài. Ông giáo sử dụng những lập luận này để thuyết phục bản thân rằng vợ ông không phải là một người ác, mà chỉ là một người tràn đầy tình cảm và khó khăn trong cuộc sống.
3. Trình tự lập luận của Hoạn Thư:
Lập luận của Kiều thể hiện ở mấy câu đầu đã rất sắc bén và đầy thuyết phục. Sau câu chào mỉa mai, Kiều không ngần ngại đưa ra lời đay nghiến, nhằm khẳng định rằng từ xưa đến nay, đã có không ít người phụ nữ ghê gớm, độc ác như những mụ phù thủy. Hoạn Thư cũng nhấn mạnh rằng, theo quan điểm cá nhân của mình, những người phụ nữ mà có tính cách cay nghiệt, tàn độc sẽ phải đối mặt với những oan trái và bị xã hội đánh giá tiêu cực. Tuy nhiên, Hoạn Thư, trong trạng thái “hồn lạc phách xiêu” của mình, đã không bị làm cho nao núng hay chùn bước bởi những lời chỉ trích. Thực tế, trong 8 dòng thơ đầy tài hoa, Hoạn Thư đã đưa ra 4 “luận điểm” quan trọng, một cách thực sự xuất sắc, để chứng minh sự thông minh và sự khôn ngoan của mình:
– Lập luận thứ nhất là: Hoạn Thư táo bạo khẳng định rằng, vì mình là một người phụ nữ, việc ghen tuông là chuyện thường tình và tự nhiên. Hoạn Thư biện minh rằng, cảm xúc ghen tuông là một phản ứng bình thường và không thể tránh khỏi trong mối quan hệ tình cảm.
– Lập luận thứ hai là: Không chỉ đánh vần với sự ghen tuông, Hoạn Thư còn tự hào về việc mình đã đối xử rất tốt với Kiều khi cô ở gác viết kinh. Ngay cả khi Kiều trốn khỏi nhà, Hoạn Thư không đuổi theo, chứng tỏ sự kiên nhẫn và lượng bể thương của mình. Hoạn Thư cho rằng, việc không đuổi theo Kiều khi cô trốn khỏi nhà là một hành động đáng khen ngợi, và chứng tỏ ông ta đã có sự kiểm soát bản thân trong tình huống căng thẳng.
– Lập luận thứ ba là: Hoạn Thư đặt mình và Kiều trong cùng một tình cảnh chồng chung, không ai có lợi thế hơn ai. Ông ta cho rằng, trong những tình huống như vậy, không ai được ưu ái hay nhường nhịn cho ai. Hoạn Thư muốn nhấn mạnh rằng, việc đối xử công bằng và không thiên vị là một nguyên tắc cần thiết trong mối quan hệ tình cảm.
– Lập luận thứ tư là: Tuy Hoạn Thư đã gây đau khổ cho Kiều, nhưng ông ta không ngần ngại nhận tội và biểu đạt sự tiếc nuối. Ông ta chỉ biết hy vọng vào sự khoan dung và lòng rộng lượng của Kiều, để có thể được tha thứ và bắt đầu lại. Hoạn Thư tự nhận trách nhiệm cho những hành động đã gây tổn thương đến Kiều và sẵn lòng chịu trách nhiệm và học từ sai lầm của mình.
Với lập luận sắc sảo và chính xác như vậy, Hoạn Thư đã thể hiện một tài năng đặc biệt trong việc biện minh và thuyết phục. Câu chuyện đặt Kiều vào một tình thế rất khó “xử”, và chính nhờ lập luận đầy sức mạnh này, Hoạn Thư đã tạo ra một tác động lớn, khiến Kiều không thể không công nhận tài năng của Hoạn Thư. Sự khôn ngoan đến mức đáng nể và sự nói năng phải lời của Hoạn Thư đã khiến người đọc không thể không đặt câu hỏi về tình thế phức tạp mà Kiều đang đối mặt. Hoạn Thư đã chứng minh rằng ông ta không chỉ là một người đàn ông thông minh mà còn là một người hiểu và tôn trọng tình cảm của phụ nữ. Ngoài ra, Hoạn Thư còn cho thấy khả năng đánh giá và phân tích sắc sảo, giúp ông ta đưa ra những quan điểm và suy nghĩ sâu sắc về tình yêu và cuộc sống. Bằng cách này, Hoạn Thư đã khéo léo tạo ra một thế giới văn học phong phú và thú vị, nơi mà người đọc có thể suy ngẫm và tìm hiểu thêm về con người và xã hội.