Mộng đắc thái liên của Nguyễn Du khắc họa nội dung chính về khung cảnh hái sen, con người và công việc hái sen, từ bông hoa sen, tác giả nêu lên những triết lí về cuộc sống con người. Sau đây là hướng dẫn Soạn bài Mộng đắc thái liên - Ngữ văn lớp 11 Kết nối tri thức.
Mục lục bài viết
1. Soạn bài Mộng đắc thái liên – Ngữ văn lớp 11 Kết nối tri thức:
Câu hỏi 1: (Sách giáo khoa Văn lớp 11 Kết nối Trang 30)
Chủ đề và cảm hứng sáng tạo?
Trả lời chi tiết:
Chủ đề: Hoa sen
Cảm hứng sáng tác: Đại thi hào Nguyễn Du sáng tác khi còn làm quan dưới triều Nguyễn, thời trẻ sống ở Thăng Long, mơ hái sen ở Hồ Tây. Trong một số cuốn sách, “cô hàng xóm” trong bài thơ này được cho là Hồ Xuân Hương. Nó dựa trên một bài thơ của Hồ Xuân Hương được làm lưu bút là ‘Cần chánh điện học sĩ nguyễn hầu’. Tác phẩm ‘Mộng đắc thái liên’ của nhà thơ Nguyễn Du (Nam Trung Tập Ngâm số 80-84) gồm năm đoạn. Đặc biệt phần III kể về một cô gái trẻ hàng xóm đi hái sen cùng tác giả. Tác giả còn đang băn khoăn không biết nàng có đến hay không thì chợt nghe thấy nàng vừa cười vừa nói.
Câu hỏi 2: (Sách giáo khoa Văn lớp 11 Kết nối Trang 30)
Thể thơ năm chữ và chất liệu thơ được sử dụng ?
Trả lời chi tiết:
Thơ năm chữ được hiểu là một thể loại của thơ Đường Luật (dựa trên số chữ trong một dòng thơ). Đó là những bài thơ một dòng 5 chữ, bài thơ có 4 dòng hoặc 8 dòng hoặc 10 dòng (thơ) trở lên theo quy tắc thơ Đường Luật. Dựa vào số dòng thơ trong một bài thơ, có ba thể thơ năm vần cơ bản:
– Thể thơ Ngũ Luật [五律] là một thể loại thơ gồm tám dòng (tám câu), mỗi dòng có 5 chữ (Ngũ Ngôn), được làm theo những quy tắc chặt chẽ của Thơ Đường; Vì vậy, nó còn được gọi là Ngũ Ngôn Luật Thi. Bài thơ Ngũ Luật giống như một bài thơ bảy chữ tám âm đường Luật lược bỏ hai tiếng đầu của câu, chỉ để lại năm tiếng tiếp theo. Về niêm, luật, vần và đối vẫn giống như bài thơ Đường luật bảy chữ.
+ Quy tắc thơ (詩律]): Xác định quy tắc bình, trắc trên cơ sở chữ đầu và chữ thứ hai của dòng đầu; Từ thứ hai và thứ tư phải đối lập nhau ( [二四分明]).
Về sự đối lập[對]: Sự đối lập dù ở hình thức nào cũng phải tập trung ở ba đặc điểm: 1)Đối Ý: tương phản và tương đồng. 2). Đối Thanh: ít nhất các chữ cái ở vị trí 2, 4, 5 phải tuân theo quy luật Btằng trắc. 3) Đối Từ: danh từ với danh từ, động từ với động từ, tính từ với tính từ; từ số dùng cho từ số, từ hàm dùng cho từ hàm; Từ ghép với từ ghép, từ ghép với từ ghép; tên riêng là tên riêng;.. Vi phạm quy định trên được gọi là Thất luật [失律].
+ Niêm[軩]: Để cân bằng, hài hòa xuyên suốt bài thơ (theo chiều dọc), câu 1 và 8, câu 2 và 3, câu 4 và 5, câu 6 và 7 phải đi liền với nhau (tức là các cặp câu phải bằng hoặc trắc). Khi các câu của một bài viết không theo một khuôn mẫu đã được thiết lập sẵn thì nó được gọi là Thất niêm [失軩].
+ Vần ([韻]: có 2 loại: chính vần [正韻] (vần gồm những từ có âm giống nhau, chỉ khác phụ âm đầu và dấu giọng); thông vần [通韻] (vần gồm những từ có cùng âm tương tự). Nếu vần sai hoàn toàn, không khớp thì gọi là Lạc Vận; nếu vần gượng ép, không hài hòa lắm thì gọi là Cưỡng Áp [強押].
+ Cấu trúc [結句]: Có ba mẫu cơ bản để viết thơ ngũ ngôn: 1) Mẫu phổ biến nhất là 2/2/2/2: Khởi – Thừa – Chuyển – Hợp [起承轉合] (hoặc Đề – Thực – Luận – Kết) [題實論結]). 2) Mẫu 4/4: Tiền và hậu giải [前解, 後解]. 3. Mô hình 2/4/2.
Dựa vào số lượng câu gieo vần, năm quy tắc được chia thành hai loại: loại Năm Vần và loại Bốn Vần. Ngũ Luật Bốn Vần là những bài thơ viết theo quy tắc vần Đường, có 8 dòng, mỗi dòng 5 âm tiết, vần (trắc hoặc bằng) ở dòng 2, 4, 6, 8 (trốn vần ở dòng 1). Ngũ Luật Năm Vần là những bài thơ được làm theo quy tắc vần Đường, mỗi dòng 8 dòng, 5 âm tiết, vần trắc hoặc bằng ở các dòng 1, 2, 4, 6, 8. Dựa vào vần cũng được chia thành các tiểu loại: vần trắc hoặc vần bằng.
– Chất liệu bài thơ sử dụng: Hoa sen, Hồ Tây, cô gái hàng xóm
Câu hỏi 3: (Sách giáo khoa Văn lớp 11 Kết nối Trang 30)
Chất trữ tình cùng các yếu tố độc đáo được sử dụng trong bài thơ?
Lời giải chi tiết
Tác phẩm ‘Mộng đắc thái liên’ có thể coi là giấc mơ đẹp hiếm có trong thơ Nguyễn Du. Nhưng nó thật kỳ diệu và ngắn ngủi làm sao. Sáng sớm, nhà thơ hẹn cô hàng xóm đi hái sen. Giữa dòng nước Hồ Tây, trên chiếc thuyền nhỏ, nhân vật trữ tình khao khát chờ đợi người hàng xóm của mình. Một bài thơ năm chữ với những khổ thơ ngắn ngủi mộng mơ cũng ngắn ngủi, bấp bênh. Nguyễn Du dường như muốn mở rộng ngôn từ, mở rộng ước mơ. Việc sử dụng nhiều thanh điệu đều đặn trong bài thơ có thể coi là nỗ lực kiềm chế bản thân của nhà thơ. Đã đạt đến mức độ gần như thuần khiết tuyệt đối, đôi câu thơ đều truyền tải cùng một thông điệp bằng tiếng vang vô tận của tâm hồn thơ. Nhờ đó, giấc mơ trở nên rõ ràng, dễ dàng hơn và được lan truyền rộng rãi.
Câu hỏi 4: (Sách giáo khoa Văn lớp 11 Kết nối Trang 30)
Hãy chỉ ra tâm hồn nhạy cảm, lãng mạn của nhà thơ Nguyễn Du.
Lời giải chi tiết:
Đoạn thứ nhất miêu tả khái quát cảnh hái sen ở Tây Hồ: ‘Xắn gọn quần cánh bướm, trèo thuyền con hái sen’
Đoạn thơ mô tả một người hái sen chèo một chiếc thuyền nhỏ lướt nhẹ trên mặt hồ, đi qua những bông hoa sen và lá sen. Nhưng xắn gọn quần cánh bướm ở đây là ai? Có lẽ là những cô gái trẻ xuất thân từ những gia đình hiền lành ven hồ mà tác giả đã quan sát. Có những người đàn bà đẹp và tất nhiên cũng có những chàng trai trẻ, trong đó có nhà thơ đa cảm Tố Như…
Hai dòng thơ tiếp theo mô tả nước hồ trong xanh, khắc họa rõ nét hình bóng người hái sen. Một số nét nổi bật về cảnh và người hái sen Tây Hồ vào một ngày đẹp trời, êm đềm và nên thơ. Trong cảnh có cảnh, có người nhưng miêu tả về con người chỉ ở một số điểm nổi bật như Quần Giáp Điệp nghĩa là chiếc quần lụa mỏng như cánh bướm rung rinh, hình ảnh người hái sen được in dưới ánh sáng rực rỡ trên mặt hồ nước điềm tĩnh.
Đoạn thơ thứ hai mô tả cụ thể việc hái sen, tất nhiên bao gồm cả mục đích của việc hái sen. Khi hái hoa sen và gương sen, cả hoa và gương đều được đặt trong thuyền. Ở đây, không có gì đặc biệt. Trong số những người dân sống dọc Hồ Tây, nhiều gia đình kiếm sống bằng nghề hái sen (và cả hoa, gương). Nhưng cũng có những người giàu coi việc sưu tầm sen chủ yếu như một thú tiêu khiển, một thú vui tao nhã. Đối với tác giả bài thơ này, hoa tặng người sợ/ Gương trao cho người yêu (Một bông hoa tặng thầy/ Thục được trao quyền cầm giữ). Hai dòng tiếp theo chứa đựng nhiều ngã rẽ cảm xúc. Sen trắng hay sen hồng đều đẹp. Hương sen nhẹ nhàng, thanh khiết. Là loài hoa quý từ xưa cũng có cái tên rất hay là hoa Phù Dung. Những bông hoa này được chọn làm quà tặng cho những người bạn yêu thương và trân trọng, cắm vào lọ để thưởng thức trong nhà hoặc dâng lên bàn thờ tổ tiên là điều hợp lý.
Đoạn thơ thứ ba cũng miêu tả cảnh hái sen nhưng với những chi tiết khác. Sáng nay thi sĩ đi hái sen và hẹn hò với cô gái hàng xóm, hình như còn trẻ và xinh đẹp. Có cuộc họp mà không biết bóng dáng mỹ nhân đã đến chưa? Không nhìn thấy vẻ đẹp hiện ra trước mắt mình, nhưng khi cô ấy nghe và cười (như hoa cười và nói), tôi cảm thấy như cồn cào trong bụng. Sen thì nhiều, ngàn bông phủ lá xanh.. Tôi chưa thấy người hái sen nhưng nụ cười vui vẻ của người hái sen xen lẫn với hoa lá xanh thật quyến rũ. Chỉ cần miêu tả tiếng cười và lời nói của người hái sen cũng thấy rõ vẻ đẹp hài hòa, thiên nhiên và con người trữ tình, sống động và thanh thoát…
Hai đoạn thơ còn lại dành cho triết lý của tác giả. Ai cũng thích hoa sen/Không ai thích cuống sen (Tam liên hoa/Hoa sen thùy giả), cũng là điều thường thấy trong cuộc sống. Hoa sen là niềm vui nhưng cũng giống như cuống sen, ít người dùng vào việc gì mà thường vứt đi. Nhưng đúng là cuống sen có sợi dây níu giữ/ Không thể ngăn cản được. Điều này có nghĩa là thân sen vẫn còn giá trị sử dụng nhưng người ta ít khi cảm nhận nên thường cho là rẻ tiền. Nghĩa là bông hoa có giá trị hoa, gương sen có giá trị gương, lá sen có giá trị lá, thân sen vẫn có giá trị thân. Chẳng hạn, trong cuộc sống, chiều cao có khác nhau, nhưng ai cũng có Đừng đánh giá thấp giá trị, sự đóng góp của mình và không nên có thái độ ‘hạ mục vô nhân’. Có lẽ Nguyễn Du muốn mượn ý tưởng này để bàn về quan niệm nhân sinh, để cảnh tỉnh mọi người chăng?
2. Tóm tắt văn bản Mộng đắc thái liên:
Tác phẩm ‘Mộng đắc thái liên’ được đưa vào Nam Trung Tập Ngâm khi Nguyễn Du còn là làm quan của triều Nguyễn. Ở bài viết đầu tiên, tác giả mô tả cảnh hái sen phổ biến nhất ở Tây Hồ, đồng thời khắc họa rõ nét những bức ảnh của những người và các cô gái hái sen. Đoạn thơ thứ hai sẽ thể hiện rõ hơn nhiệm vụ hái sen. Từ đây có thể suy ra mục đích của việc hái sen. Sau khi thu hoạch, chúng được đưa lên thuyền. Ảnh hưởng sau này của hình tượng hoa sen của Nguyễn Du tới cuộc đời làm quan của ông. Đoạn thơ thứ ba cũng tập trung miêu tả cảnh hái sen nhưng các chi tiết có khác nhau. Nhà thơ hái sen đang hẹn với cô gái xinh đẹp hàng xóm. Trong bức ảnh hoa sen trắng này, bạn không thể nhìn thấy người đang hái sen nhưng có thể thấy được niềm vui và khung cảnh tuyệt vời của người hái sen. Hai đoạn thơ cuối dành cho triết lý của tác giả. Quan điểm của ông là con người chỉ coi trọng hoa sen, còn những bộ phận khác thường bị bỏ đi, và đây cũng chính là triết lý sống mà ông truyền tải đến con người. Dù ở cùng một vị trí hay ở các vị trí khác nhau, họ đều có giá trị riêng.
3. Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm:
3.1. Giá trị nội dung:
Tác phẩm ‘Mộng đắc thái liên’ mô tả nội dung chính của việc hái sen, con người và công việc hái sen.
3.2. Giá trị nghệ thuật:
– Thể thơ năm chữ giúp tác giả bộc lộ mọi tâm tư trong tác phẩm.
– Ngôn ngữ bài thơ hay, giản dị nhưng ấn tượng.
– tượng trưng cho hiện thực thực tế và có ý nghĩa to lớn.