Với soạn bài Lí ngựa ô ở hai vùng đất trang 89, 90 Ngữ văn lớp 10 Chân trời sáng tạo sẽ giúp học sinh trả lời câu hỏi từ đó dễ dàng soạn văn 10. Xin mời các bạn độc giả cùng theo dõi bài viết sau đây.
Mục lục bài viết
1. Soạn bài Lí ngựa ô ở hai vùng đất – Chân trời sáng tạo:
Câu 1: (trang 90 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1):
Văn bản cho thấy có sự khác biệt như thế nào về cảm nhận của chủ thể trữ tình trong những câu hát của Lý Ngựa Ô ở “Làng anh” và “Bên em”.
Phương pháp giải:
– Hãy đọc kỹ văn bản.
– Hãy chú ý đến “Làng anh” và “Bên em”.
Lời giải chi tiết:
– “Làng anh ở ven sông”: hát vào tháng 4 để chuẩn bị cho lễ hội Gióng. Câu hát Lí ngựa ô ở ”làng anh” hát khi đang chiến đấu với kẻ thù, đi đánh giặc. Ai nghe cũng tưởng mình đang đi trên mây, nhưng không ai nghĩ mình đang cưỡi ngựa sắt. Thời điểm “làng anh” tức là đang đi lính, ra trận.
– Bên em: “móng ngựa gõ mê say”, “qua phá rộng duềnh doàng lên đợt sóng”.. Với em, lời hát “Lý ngựa ô” nghe như một lời mời gọi, truyền tải không khí mộc mạc của miền quê, sông nước miền Trung.
Câu 2: (trang 90 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1):
Tìm những chi tiết trong văn bản cho thấy có sự gặp gỡ, hòa hợp giữa các lời hát Lý Ngựa Ô được hát ở “hai vùng đất” với những người hát khác nhau, địa điểm hát khác nhau và giọng điệu khác nhau.
Phương pháp giải:
– Hãy đọc kỹ văn bản.
– Chú ý những chi tiết thể hiện sự gặp gỡ, hòa hợp giữa các lời hát Lý Ngựa Ô được hát ở “Hai vùng đất” do nhiều người hát khác nhau, địa điểm hát và âm điệu hát khác nhau.
Lời giải chi tiết:
– Chiêm ngưỡng miền Trung qua truông dài phá rộng/móng gõ mặt thời gian gõ trống.
– Ca ngợi miền Nam như giục như mời/ngựa tung bờm bay qua biển lúa/ngựa ghìm cương nơi sông xòe chín cửa.
Câu 3: (trang 90 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1):
Bạn hiểu thêm gì về vẻ đẹp và sức sống trong những câu lí, câu hò và trong những câu ca dao, dân ca nói chung khi đọc Lí ngựa ô ở hai vùng đất (Phạm Ngọc Cảnh)?
Phương pháp giải:
Hãy bày tỏ ý kiến của bạn.
Lời giải chi tiết:
Những câu hò, câu lí và ca dao, dân ca nói chung dường như đều thể hiện vẻ đẹp và ước muốn của con người. Nó chứa đựng những mong ước của mỗi người như ước mong hòa bình, tình yêu vợ chồng, tình yêu lứa đôi, những tâm tư tình cảm, tình yêu quê hương, đất nước.
2. Khái quát bài Lí ngựa ô ở hai vùng đất:
2.1. Hát bên Anh:
– “Vó ngựa”: ẩn dụ cho giặc ngoại xâm
=> Phản ánh hiện thực hỗn loạn, chia ly và một tương lai bấp bênh, bất định.
– Câu hỏi tu từ ‘anh lớn lên vó ngựa cuốn về đâu’ là cái cớ để tác giả bày tỏ tình cảm của mình.
=> Sau hàng nghìn năm đại dương và nhiều cuộc chiến tranh khốc liệt, làm sao những tảng đá xếp chồng lên nhau bấp bênh bên mép sóng có thể tồn tại được trong khoảng thời gian như vậy? Có lẽ điều đó biểu tượng cho mong muốn được tìm hạnh phúc của riêng của cha ông ta.
+ Từ ‘cớ’ ở đầu bài thơ nghe như một lời khiển trách nhẹ nhàng, nhưng khi nghĩ lại, ta mới thấy chúng ta khâm phục khát vọng tự do của tổ tiên đến nhường nào.
=> Họ đã thoát khỏi xiềng xích của các thế lực phong kiến và các nghi lễ. Tại sao các cặp đôi không thể yêu nhau trước khung cảnh thơ mộng như vậy?
2.2. Hát bên Em:
– Giữa hai người chắc chắn có một bức tường khó vượt qua. Sau khi cô gái hóa đá, còn có một lý do khác khiến cô phải sang kiếp sau cùng người yêu, chàng trai đành phải hỏi một cách tha thiết:
“hóa đá làm gì nữa em/hóa đá cũng không còn kịp’
– Anh đã tìm ra lối thoát, phương án “tối ưu”. Đó là dạo quanh đảo Chống Mía/ dạo quanh những nỗi buồn ngàn đời để lại/ hôn nhau giữa sóng xám.
=> Tổ tiên của chúng ta đã có thể vượt qua mọi thứ để được hạnh phúc. Tại sao chúng ta không thể vượt qua giông bão và hôn nhau dù chỉ một lần?
– Câu thơ tự do với những khoảng dừng nhịp nhàng. Sử dụng các biện pháp tu từ một cách linh hoạt, bao gồm thông điệp, câu hỏi tu từ, ẩn dụ và hoán dụ.
3. Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của bài thơ Lí ngựa ô ở hai đầu vùng đất:
– Giá trị nội dung
+ Lời bài thơ thể hiện sự độc đáo trong các ca từ làn điệu Lí ngựa ô khi ở hai địa điểm khác nhau: Làng anh và làng em.
+ Thông qua giai điệu của Lí ngựa ô, cảm xúc của những chàng trai, cô gái khao khát tình yêu được bộc lộ một cách khiêm tốn.
+ Cho thấy giai điệu, bài hát truyền tải tâm tư, tình cảm, ước mơ, mong muốn của con người.
+ Một phần thể hiện văn hóa truyền thống của đất nước thông qua những bản tình ca, giai điệu, vần điệu, thể hiện sự giao lưu văn hóa của cộng đồng các thế hệ đi trước, nhưng điều này không ngăn cản được sự gặp gỡ, hòa hợp văn hóa của hai vùng đất khác nhau.
– Giá trị nghệ thuật
+ Phong cách và cách viết lời bài hát gần giống với ca dao.
+ Giọng điệu thủ thỉ, tình cảm, nồng nàn, nhẹ nhàng
+ Ngôn ngữ giản dị, giản dị và thuần Việt, mang đậm nét văn hóa dân tộc.
4. Phân tích Lí ngựa ô ở hai vùng đất:
“Khớp con ngựa ngựa ô
Khớp con ngựa ngựa ô
Ngựa ô anh khớp, anh khớp cái kiệu vang, ớ ơ ờ ớ ơ…
Anh tra khớp bạc, lục lạc đồng đen
Búp sen lá dặm, dây cương nhuộm thắm
Cán roi anh bịt đồng thoà.
Là đưa, í a đưa nàng, đưa nàng…
Anh đưa nàng về dinh…”
Đây là những lời hát tôi thường nghe trên đài của ông nội khi còn nhỏ. Khi trưởng thành, tôi tìm hiểu và phát hiện ra đó là lời bài hát dân ca nổi tiếng miền Nam Lý Ngựa Ô. Đó là một bài hát để lại ấn tượng mạnh với tôi với nhịp điệu nhẹ nhàng và hình ảnh những chú ngựa mang nhiều sắc thái sống động.
Gần đây tôi được biết trong văn học Việt Nam có bài thơ “Lý ngựa ô” viết về làn điệu Lý ngựa ô. Bài thơ này thuộc thể loại thơ tự do của tác giả Phạm Ngọc Cảnh, nằm trong tuyển tập Đêm Quảng Trị.
Hoàn cảnh mà bài thơ này ra đời rất đặc biệt bởi nằm trong mạch văn được sáng tác trên tinh thần của người lính ra trận. Bài “Lý ngựa ô” ghi lại những cuộc chiến tranh đã qua của đất nước ta qua giai điệu dân gian nổi tiếng, xen lẫn tình yêu đôi lứa.
Đầu tiên, những làn điệu Lý ngựa ô được hát ở bên anh trong phần đầu của bài thơ:
“Anh lớn lên vó ngựa cuốn về đâu
……
Cả một vùng sông ai chẳng hát
Sao không nghe câu lý ngựa ô này.”
Có lẽ hình ảnh con ngựa đã hiện lên trong tâm trí anh từ khi còn nhỏ. “Anh lớn lên vó ngựa cuốn về đâu” Ở đây, nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh dùng từ “vó ngựa” trong câu đầu của bài thơ để minh họa cho nghệ thuật hoán dụ vốn dùng để chỉ giặc ngoại xâm.
Điều này cho thấy anh lớn lên trong thời kỳ đất nước còn loạn lạc và chiến đấu chống giặc cứu nước. Nhưng ngay cả trong điều kiện chiến tranh, lửa đạn, người dân miền Nam anh hùng vẫn không ngừng yêu thương nhau, lan tỏa tình yêu đó để có sức mạnh cùng nhau bảo vệ Tổ quốc.
Tình yêu đối với vùng đất và con người nơi đây được thể hiện qua giai điệu của lời ca dân gian nổi tiếng Lý Ngựa Ô. Lời hát này dường như tiếp thêm sức mạnh cho anh hành quân đánh giặc, như thể em luôn chờ đợi anh trở về.
Ở đoạn tiếp theo, tác giả sử dụng nghệ thuật điệp ngữ để làm tăng thêm niềm tự hào của nhân vật anh đối với làn điệu Lý Ngựa Ô được tổ tiên truyền lại. àn điệu lý ngựa ô là di sản quý giá của tổ tiên chúng ta. Đó là lý do tại sao anh và em đều yêu thích nó và nghe đi nghe lại. Vì niềm tự hào này mà nhân vật anh đã khéo léo thổ lộ tình cảm của mình với người thương.
Không chỉ anh mà cả “làng” quê hương anh cũng yêu thích giai điệu lý ngựa ô. Quê hương của nhân vật anh trong lời bài hát được miêu tả là “ở ven sông”. Và hơn hết, nơi đây gắn liền với truyền thuyết Thánh Gióng, câu chuyện huyền thoại về sự xuất hiện của con ngựa sắt đã đồng hành cùng Thánh Gióng trong trận chiến đánh giặc.
Lễ hội Gióng được tổ chức ở làng anh vào tháng Tư hàng năm. Mọi người từ khắp nơi tham gia lễ hội để bày tỏ lòng biết ơn đối với anh hùng Thánh Gióng. Khi lễ hội Gióng được tổ chức thì truyền thuyết về Thánh Gióng được lưu truyền cho thế hệ mai sau. Lúc này, giai điệu lý ngựa ô nghe giống như cảm giác mình đang được “đi trên mây” và “rong ngựa sắt” vậy.
Và những bài hát Lý ngựa ô của hai vùng bên anh cùng bên em đã gặp nhau và giao lưu với nhau.
‘Hay vì làng anh ở ven sông
những năm gần đây tháng tư vào hội Gióng
đã hát quen lý ngựa ô rồi
khen câu miền Trung qua truông dài phá rộng
móng gõ mặt thời gian gõ trống
khen câu miền Nam như giục như mời
ngựa tung bờm bay qua biển lúa
ngựa ghìm cương nơi sông xoè chín cửa
tiếng hí chào xa khơi…
hay em biết quê anh ngoài đó
câu hát bắc cầu qua một thời quan họ
câu hát xui nhau nên vợ nên chồng
lý ngựa ô này hát theo đường đánh giặc
có điều gì như thể ẩn vào trong?’
Dù có cùng một giai điệu nhưng mỗi bài hát đều có nét đặc trưng riêng tùy theo vùng miền. Đối với anh, Lý ngựa ô gắn liền với truyền thuyết về Thánh gióng. Bên em, nó gắn liền với vùng đầm phá rộng lớn của miền Trung. Hay ở miền Nam, Lý ngựa ô có giai điệu “như khẩn thiết, như mời gọi”, với ca từ về những chú ngựa bay qua vựa lúa khổng lồ, dòng sông Mê Kông chảy qua gợi lên hình ảnh những chú ngựa chạy qua nơi này với tiếng hý lớn vang lên: ‘chào xa khơi’
Trong sự hòa quyện, giao thoa của những làn điệu Lý ngựa ô từ các vùng miền khác nhau, ẩn chứa lời tỏ tình của một chàng trai miền Bắc gửi đến người mình yêu. Như một lời tỏ tình chân thành và dịu dàng, anh đã giới thiệu cho em một bản tình ca khắc họa phong cảnh nổi tiếng Quan Họ Bắc Ninh ở phía Bắc hay còn gọi là câu hát xui nhau nên vợ chồng.
Sau đó anh muốn hỏi cô một cách bí mật. Lời ca của Lý ngựa ô đã đi theo con đường đánh giặc từ bao đời nay, có chứa đựng những cảm xúc tình yêu như ca khúc quan Họ không? Nó giống như lời mong ước của một chàng trai được người yêu vững vàng hỗ trợ mình trong cuộc chiến chống lại kẻ thù trong khi chờ đợi ngày chiến thắng trở về.
Qua bài thơ ‘Lí ngựa ô ở hai vùng đất’, người đọc như được thả hồn theo giai điệu của Lý ngựa ô, một bài dân ca nổi tiếng không kém gì bài hát Quan Họ Bắc Ninh. Bài thơ này thể hiện vẻ đẹp của làn điệu dân ca Lý ngựa ô trên khắp ba miền đất nước từ Bắc vào Nam và khắp nơi những giai điệu ấy đều đẹp đẽ và chứa đựng những nét riêng của vùng miền.
Trong bài đồng dao Lí ngựa ô, các nhân vật trữ tình đã bày tỏ tình cảm với nhau, tình yêu quê hương đất nước. Giống như giai điệu Lí ngựa ô đã ăn sâu vào văn hóa nước ta qua nhiều thế hệ, truyền thống yêu nước, tương thân tương ái đã ăn sâu vào tâm hồn mỗi người dân Việt Nam.