Soạn bài Khóc Dương Khuê siêu ngắn nhất trang 31 SGK ngữ văn 11 tập 1 giúp tiết kiệm thời gian soạn bài nhưng vẫn cung cấp đầy đủ kiến thức bài học, mời các bạn tham khảo
Mục lục bài viết
1. Tổng quan về tác giả Nguyễn Khuyến:
Tiểu sử:
Nguyễn Khuyến (1835 – 1909), mang hiệu là Quế Sơn, từ khi còn nhỏ tên gọi của ông là Nguyễn Thắng, sinh ra tại quê ngoại – xã Hoàng Xá (hiện nay là xã Yên Trung) thuộc huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Ông lớn lên và sống chủ yếu ở quê nội – làng Và (tên chữ là Vị Hạ), thuộc xã Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
Nguyễn Khuyến xuất thân trong một gia đình nho nghèo. Năm 1864, ông đỗ đầu kì thi Hương. Mấy kì thi sau đó trượt lại thi lại, mấy lần như vậy cho đến năm 1871, ông đã đỗ đầu cả hai kì thi Hội và thi Đình. Nhờ kết qủa xuất sắc này mà Nguyễn Khuyến được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ. Mặc dù có thành tích cao trong các kì thi nhưng ông chỉ làm quan trong vòng mười năm và phần lớn cuộc đời của ông được dành cho việc dạy học và sống một cuộc sống thanh bạch tại quê nhà.
Sự nghiệp văn chương:
Nguyễn Khuyến được biết đến với tài năng và phẩm chất cao cả, ông có lòng yêu nước và thương dân. Ông từng thể hiện sự quyết liệt trong việc không hợp tác với chính quyền thuộc địa Pháp.
Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ lớn cuối cùng của thời trung đại. Ông được xưng danh là nhà thơ của dân tình và làng cảnh Việt Nam.
Tác phẩm của Nguyễn Khuyến bao gồm cả văn bằng chữ Hán và chữ Nôm, với số lượng lớn, hiện nay còn hơn 800 bài thơ, văn, câu đối, nhưng phần lớn là thơ.
Thơ của Nguyễn Khuyến thể hiện tình yêu đối với quê hương, đất nước, gia đình và bạn bè; phản ánh cuộc sống của những con người khốn khó, thuần hậu và chất phác; chỉ trích và chống lại sự xâm lược của thực dân, tầng lớp bóc lột đồng thời triển khai lòng ái mạnh mẽ dành cho dân tộc và quê hương.
Đóng góp nổi bật của Nguyễn Khuyến cho văn học dân tộc nằm ở lĩnh vực thơ Nôm, thơ viết về làng quê và thơ trào phúng.
2. Tác phẩm Khóc Dương Khuê:
2.1. Tìm hiểu chung:
* Hoàn cảnh sáng tác
– Nguyễn Khuyến sinh năm 1835, Dương Khuê sinh năm 1839. Hai người kết bạn từ thuở thi đậu, Nguyễn Khuyến bỏ quan về quê, Dương Khuê vẫn làm quan nhưng cả hai vẫn giữ tình bạn gắn bó khăng khít.
– Năm 1902, khi nghe tin bạn mất, Nguyễn Khuyến đã làm bài thơ khóc bạn.
– Bài thơ ban đầu viết bằng chữ Hán, sau đó được chính Nguyễn Khuyến dịch ra chữ Nôm, bản chữ Nôm lại có phần phổ biến hơn bản chữ Hán
* Bố cục (3 đoạn)
– Đoạn 1 (hai câu thơ đầu): Nỗi đau đột ngột khi mất bạn.
– Đoạn 2 (từ câu 3 đến câu 22): Những kỉ niệm tươi rói về tình bạn sống lại trong hồi tưởng của nhà thơ.
– Đoạn 3 (phần còn lại): Nỗi đau tắc nghẹn, hụt hẫng, chơi vơi khi đối diện với hiện thực phũ phàng (mất người tri âm, tri kỉ).
2.2. Giá trị nội dung và nghệ thuật:
– Giá trị nội dung: Bài thơ “Khóc Dương Khuê” là một bài thơ cảm động, đã thể hiện một tình bạn tri âm, tri kỉ của Nguyễn Khuyến đối với Dương Khuê.
– Giá trị nghệ thuật
+ Thể thơ song thất lục bát, đậm đà bản sắc dân tộc
+ Ngôn ngữ bình dị, dễ hiểu
+ Sử dụng kết hợp các biện pháp nghệ thuật: nói giảm nói tránh + các câu hỏi tu từ + điệp từ,…
3. Soạn bài Khóc Dương Khuê ngắn gọn:
3.1. Soạn bài Khóc Dương Khuê – Mẫu 1:
Câu 1 (trang 32 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1)
Bài thơ được chia làm ba đoạn:
– Đoạn 1 (hai câu đầu): Nỗi buồn đột ngột khi mất bạn.
– Đoạn 2 (từ câu 3 đến câu 22): Nhớ lại những kỉ niệm của hai người và bộc lộ tâm trạng buồn của tác giả.
– Đoạn 3 (phần còn lại): Nỗi buồn mất bạn cùng nỗi buồn khi thiếu tri kỷ.
Câu 2 (trang 32 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1)
Tình bạn sâu nặng, thuỷ chung giữa hai người được tác giả thể hiện thông qua sự vận động của xúc cảm thơ.
– Hai câu thơ đầu: Nỗi đau đớn của Nguyễn Khuyến khi hay tin bạn mất:
+ Từ ngữ: Thôi đã thôi rồi, xót xa, bùi ngùi. → Tin bạn mất đến với Nguyễn Khuyến một cách đột ngột, bất ngờ, sửng sốt.
+ Nhịp thơ bị phá vỡ 2/1/3: Như một tiếng khóc nức nở, nấc nghẹn bởi nỗi đau đớn mất bạn của Nguyễn Khuyến.
– Đoạn thơ thứ 2: Tác giả gợi nhớ lại những kỷ niệm trong quá khứ:
+ Cùng thi đậu, cùng làm quan, cùng nhau trải qua bao thú vui tao nhã. → Là bạn tâm giao, tri kỉ.
+ Tuổi già đã viếng thăm nhau. → Dòng hồi ức hiện lên một tình bạn đẹp. Đó là lý do khiến Nguyễn Khuyến đau đớn, sững sờ khi nghe tin bạn từ trần.
– Đoạn thơ thứ 3 (đoạn còn lại): Nỗi trống trải khi bạn chết: Mất bạn, Nguyễn Khuyến thấy vô cùng cô đơn, cuộc sống không có ý nghĩa. Nỗi buồn thể hiện qua nhiều cung bậc: lúc đột ngột, lúc bâng khuâng, tiếc nuối, lúc lắng đọng ngấm sâu vào tuổi xế chiều của tác giả.
Hai câu kết là nỗi đau không nước mắt, nỗi buồn cứ dồn vào lòng:
Tuổi già hạt lệ như sương
Hơi đâu chuốc lấy hai hàng chứa chan
Câu 3 (trang 32 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1)
Bài thơ đã thể hiện một thành công nổi bật trong việc sử dụng nghệ thuật tu từ, trong đó có sự tinh giản và tránh né thông qua ngôn ngữ. Tuy nhiên, điểm đặc biệt nhất của bài thơ là ở cách sử dụng câu hỏi tu từ trong phần cuối của bài.
Ngôn ngữ thơ đã đạt đến một cấp độ tuyệt vời: chỉ sử dụng 5 từ không trong tổng số 14 từ để diễn tả một trạng thái không trống rỗng khi mất đi người bạn, gây ra cảm giác kinh hoàng.
Cách sử dụng từ và hình ảnh, áp dụng các biểu tượng và âm điệu của câu thơ song thất lục bát, nhân vật chính tỏ ra lòng trắc ẩn. Bằng cách này, bài thơ giúp ta hiểu về tình bạn chân thành và gắn bó, cũng như khám phá một khía cạnh mới của nhân cách Nguyễn Khuyến.
3.2. Soạn bài Khóc Dương Khuê – Mẫu 2:
Câu 1 (trang 32 sgk Ngữ văn 11 Tập 1)
Bài thơ trên được chia làm 3 đoạn:
Đoạn 1 (hai câu thơ đầu): Nỗi buồn khi hay tin bạn mất.
Đoạn 2 (từ câu 3 đến câu 22): Những kỷ niệm về tình bạn trong dòng hồi tưởng của nhà thơ.
Đoạn 3 (đoạn còn lại): Cảm giác buồn đau, hụt hẫng khi quay về đối mặt với thực tại.
Câu 2 (trang 32 sgk Ngữ văn 11 Tập 1)
* Kỉ niệm của nhà thơ với người bạn của mình
– Cùng nhau thi đỗ làm quan
– Cùng nhau rong chơi khắp miền đất nước
– Cùng ngân nga hát chầu văn
– Cùng nhau rót rượu và bàn luận thơ ca
– Cùng nhau vượt qua các buổi hoạn nạn, khó khăn
* Nỗi đau, trống vắng khi mất bạn
– Chân tay rụng rời khi biết tin bạn chết
– Rượu say không có bạn hiền
– Câu thơ hay không có ai đọc
– Đàn kia gảy cũng không ai nghe
⇒ Cho biết tình sâu nặng của Nguyễn Khuyến và Dương Khuê. Cùng với tâm trạng lúc đột ngột, lúc bâng khuâng, tiếc nuối, lúc trầm lắng ngấm sâu chi phối tuổi già của tác giả. Hai câu kết là nỗi đau không nước mắt, nỗi đau như trút vào lòng.
Câu 3 (trang 32 sgk Ngữ văn 11 Tập 1)
Nghệ thuật nói tránh “Bác Dương thôi đã thôi rồi” đã được áp dụng thành công. Cùng với đó là việc sử dụng các câu hỏi tu từ trong phần cuối của bài thơ. Chuỗi câu thơ như”Làm sao bác vội về ngay”,”Vội vàng sao đã mải lên tiên”đã tạo ra hiệu ứng hụt hẫng và mơ hồ.
Cách sử dụng từ “không” trong câu thơ rất phù hợp và đặc biệt. Chỉ cần một cặp câu lục bát để đặt 5 từ “không”, diễn tả được sự trống rỗng khi mất đi người bạn. Cuối cùng, bài thơ kết thúc với những dòng thơ nhẹ nhàng, gợi lên sự xót xa, đau lòng và buồn chán.
3.3. Soạn bài Khóc Dương Khuê – Mẫu 3:
Câu 1 trang 32 SGK Ngữ văn 11 tập 1
Bài thơ được chia làm ba đoạn:
– Đoạn 1 (hai câu đầu): Giới thiệu về sự ra đi bất ngờ của Dương Khuê
– Đoạn 2 (từ câu 3 đến câu 22): Nhớ lại những kỉ niệm của hai người và diễn tả tâm trạng buồn của nhà thơ.
– Đoạn 3 (phần còn lại): Nỗi buồn nhớ bạn cùng tâm sự một mình vì thiếu tri kỷ.
Câu 2 trang 32 SGK tập 1 Ngữ văn 11
Tình bạn sâu nặng, thuỷ chung:
– Cách xưng hô: tôi – bác đầy thân thương, trìu mến.
– Nỗi đau đớn lúc biết tin bạn mất: sử dụng điệp ngữ “thôi” với độ cảm thán cao, kết hợp những từ “man mác”, “ngậm ngùi” miêu tả cảm xúc.
– Những kỉ niệm tình bạn đẹp:
+ Thuở học trò, sớm hôm cùng nhau.
+ Kính yêu, khác gì duyên trời.
+ Cùng nhau đi qua nhiều quãng thời gian quý giá: lúc vui chơi nơi dặm khách, khi cùng gác bếp, lúc rượu ngon cùng nhắm, khi soạn câu văn.
+ Cùng nhau vượt qua bao khó khăn, biến cố cuộc đời: buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn, phận đẩu thăng không dám than trời.
– Nỗi trống vắng khi bạn qua đời:
+ Chân tay rụng rời: nỗi đau tâm hồn chuyển sang nỗi đau đớn thân xác.
+ Rượu say không có bạn tri kỉ, câu thơ suy nghĩ chần chừ không viết, viết cho ai, ai biết mà viết: không có người bạn, tri kỉ, không có người tri kỉ.
+ Giường nọ treo cũng hờ hững, đàn kia đánh cũng chẳng tiếng đàn: vật còn mà người mất đi, đồ vật trở nên vô nghĩa.
Câu 3 SGK tập 1 Ngữ văn 11 trang 32
Các biện pháp tu từ được áp dụng trong bài gồm:
– Sử dụng các phép điệp liên hoàn và điệp vòng tròn:”Không mua không phải không tiền không mua”,”Viết đưa ai, ai biết mà đưa”.
– Sử dụng sự đối lập giữa cái còn lại và cái đã mất, để diễn tả trạng thái của vật vẫn đó người bạn đã ra đi:”Rượu ngon không có bạn hiền”,”Giường kia treo cũng hững hờ”,”Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn”.
– Sử dụng thể thơ song thất lục bát, một thể thơ quen thuộc trong nhạc khúc, để truyền đạt cảm xúc sâu sắc và đau lòng.