Đò lèn của Nguyễn Duy đã khắc họa lại hình ảnh người bà và tình yêu thương bao la, tần tảo của bà trong ký ức tuổi thơ của chính tác giả. Đây là bài thơ xuất hiện trong chương trình văn học 12. Bài viết dưới đây sẽ hướng dẫn Soạn bài Đò Lèn của Nguyễn Duy: Tác giả và tác phẩm?
Mục lục bài viết
1. Tìm hiểu về tác giả – nhà thơ Nguyễn Duy
– Nguyễn Duy tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948
– Quê: xã Đông Vệ, thị xã Thanh Hóa (nay thuộc thành phố Thanh Hóa).
– Mẹ mất sớm, từ nhỏ đã sống với bà ngoại, là người thân duy nhất của ông. Do vậy, đối với nhà thơ, bà ngoại chính là người gần gũi, thân thuộc nhất.
– Năm 1966, Nguyễn Duy lên đường nhập ngũ và trở thành bộ đội bộ đội thông tin, ông đã hăng hái tham gia chiến đấu trên nhiều mặt trận.
– Cuối năm 1975, ông cùng đơn vị hoạt động vào tiếp quản tỉnh Vũng Tàu.
– Năm 1976, ông chuyển vào sinh sống và công tác tại Thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời, làm biên tập viên cho báo Văn nghệ ở phía Nam.
– Nguyễn Duy bắt đầu sáng tác thơ từ rất sớm, ngay từ khi còn là học sinh phổ thông.
– Năm 1973, Nguyễn Duy đã giành được giải Nhất trong cuộc thi thơ báo Văn nghệ với chùm thơ: Bầu trời vuông, Hơi ấm ổ rơm, Tre Việt Nam.
– Thơ của ông có sự kết hợp hài hòa giữa cái duyên dáng, trữ tình với chất thế cuộc đời.
– Nguyễn Duy là một trong số ít nghệ sĩ hiện nay góp phần làm mới, làm đẹp thể lục bát truyền thống bằng những tìm tòi theo hướng hiện đại, tạo nên nét sáng tạo, độc đáo hấp dẫn trong cấu trúc, hình ảnh và cả ngôn ngữ của thể thơ này.
– Năm 2007, Nguyễn Duy được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
* Tác phẩm tiêu biểu:
Một số tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Duy:
– Về thể loại thơ ca gồm: Cát trắng (1973), Đãi cát tìm vàng (1987), Ánh trăng (1984),…
– Thể loại khác: Em – Sóng (thể loại kịch thơ, 1983), Khoảng cách (thể loại tiểu thuyết, 1986), Nhìn ra bể rộng trời cao (thể loại bút ký, 1986)…
2. Tìm hiểu về tác phẩm Đò lèn:
2.1. Hoàn cảnh sáng tác:
Bài thơ Đò len được sáng tác năm 1983, trong một dịp nhà thơ trở về thăm quê hương, được sống lại trong những hồi ức vui buồn của thời thơ ấu với bà ngoại.
2.2. Bố cục:
Bố cục bài thơ có thể chia thành hai phần:
Phần 1. Từ đầu đến câu thơ “bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn”: Những ký ức về hình ảnh người bà tần tảo đầy tình yêu thương trong kí ức tuổi thơ
Phần 2. Phần còn lại: thể hiện sự thức tỉnh, sự hối tiếc muộn màng của nhà thơ về tình cảm dành cho bà.
2.3. Giá trị nội dung:
Nguyễn Duy đã sử dụng tâm hồn thơ ca để tôn vinh người bà ngoại của mình với lòng kính trọng và tình yêu thương sâu sắc. Bài thơ “Đò Lèn” đã tái hiện lại những ký ức tuyệt đẹp, yên bình trong kí ức tuổi thơ, và hình ảnh người bà vô cùng quý giá, đem đến cho người đọc một tình cảm sâu nặng của người cháu đối với người bà đã khuất. Tác phẩm cũng thể hiện được sự hối tiếc, nuối tiếc của người cháu về tuổi thơ vô tư, vô lo và vô tâm, sống trong mộng tưởng đẹp mà không thấu hiểu được cuộc sống khó khăn, đầy vất vả của người bà.
2.4. Giá trị nghệ thuật:
– Bài thơ có sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa tính cách dân gian và phong vị cổ điển.
– Hình ảnh thơ bình dị và gần gũi, quen thuộc với cuộc sống đời thường, chất hỏm hỉnh dân gian.
3. Phân tích bài thơ Đò lèn:
“Bài thơ Đò Lèn” của Nguyễn Duy được viết vào tháng 9 năm 1983 và được in trong tập thơ “Ánh trăng” được xuất bản vào năm 1984. Bài thơ có tổng cộng 36 câu thơ, với hai câu thơ bảy tiếng, một câu thơ chín tiếng và 32 câu thơ tám tiếng. Tác phẩm này được viết như là một lời kể tâm tình, với các địa danh quen thuộc từ quê hương của tác giả được nhắc đến để tái hiện lại những ký ức thời thơ ấu của ông, nơi mà bà ngoại của ông đã từng đồng hành và gắn bó với ông.
Trong bài thơ, hình ảnh của người bà nghèo khổ, tần tảo và đôn hậu được tái hiện với những câu thơ bình dị nhưng đầy tình cảm và sức cuốn hút. Vì Nguyễn Duy lớn lên trong hoàn cảnh mồ côi mẹ, nên tình cảm của ông dành cho bà ngoại càng trở nên chân thực và cảm động hơn bao giờ hết. Khi đọc đến cuối bài thơ, giọng thơ của Nguyễn Duy trở nên bùi ngùi và nuối tiếc hơn khi ông nhớ đến người bà của mình.
Tác giả bắt đầu bài thơ bằng hai câu thơ đầy hồn nhiên, gợi lại kí ức tuổi thơ đầy đủ yêu thương và tình cảm của một cậu bé nghèo ở quê hương. Những chuyến đi câu cá ở cống Na, theo bà đi chợ Bình Lâm, hay đi bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật, đôi khi “ăn trộm nhãn chùa Trần” được đề cập đều là những trải nghiệm đầy tinh thần trẻ trung, đáng nhớ. Các câu thơ đơn giản, giản dị nhưng đầy cảm xúc đã đánh thức những cảm giác rung động về một thời tuổi thơ với sự ngộ nghĩnh, đáng yêu.
“níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần”.
Cũng đã từng “lên chơi đền Cây Thị”, với đôi chân đất của con nhà nghèo, vẫn háo hức trong mùa lễ hội, vẫn “đi đêm xem lễ đền Sòng”, “Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh” (Tản Đà). Hoa huệ trắng, khói trầm, điệu hát văn và bóng cô đồng “lảo đảo” những hình ảnh bình dị đã in sâu vào tâm hồn tuổi thơ của Nguyễn Duy:
“mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng”.
Nguyễn Duy thường nhắc đến hoa huệ với màu trắng và mùi thơm bằng tất cả sự thanh khiết của tâm hồn mình, hoa huệ trên bàn thờ mẹ:
“Bần thần hương huệ thơm đêm
khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn”.
(Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa)
Trong bài thơ “Đò Lèn”, ông cũng hai lần nhắc đến:
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm…
cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm…
Bài thơ “Đò Lèn” gây ấn tượng sâu sắc với người đọc bởi hình tượng người bà trong bài thơ. Đó là bà ngoại của Nguyễn Duy, một người phụ nữ Việt Nam kiên cường, đầy nghị lực. Nhà nghèo, bà phải vất vả “mò cua xúc tép” ở Đồng Quan để kiếm tiền nuôi cháu. Bà đi gánh thuê chè xanh Ba Trại, vất vả đường xa, gồ ghề, đêm tối và gió rét, đôi chân bà “thập thững” bước đi. Đôi vai “chín dạn” vì gánh đòn tre. Bước đi cao bước đi thấp, lúc ngả lúc nghiêng, bước đi “thập thững” trong đêm tối, trong gió rét. Nhưng bà không bao giờ đụng vào tiền của con cháu. Bà là hiện thân của đức hi sinh, chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Nam, của những người phụ nữ vất vả trong cuộc sống. Từ những ký ức tuổi thơ, Nguyễn Duy đã gửi gắm bao tình thương và biết ơn đối với bà:
“Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
Bà mò cua, xúc tép ở đồng Quan
Bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn”.
Năm đói kia, một củ dong riềng luộc sượng bà dành cho cháu. Trong vị ngon ngọt của củ dong riềng, đưa trẻ “nghe” được mùi thơm của huệ trắng, của hương trầm. Nguyễn Duy đã lấy mùi thơm của huệ trắng, hương trầm để diễn tả những xúc cảm về tình thương bao la, mênh mông của bà, trong ký ức, bà là người phụ nữ hiền lành, tâm hồn bà đôn hậu, thánh thiện. Sống trong tình yêu thương ấp ủ của bà, nên đứa cháu mới thấu hiểu được lòng bà, tâm hồn của bà:
“Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực
Giữa bà tôi và tiên, Phật, thánh, thần”.
Giữa thời khói lửa, bom đạn giội làm nhà bà “bay mất”, đền Sòng cũng “bay”, chùa chiền “bay tuốt cả”,…mà bà vẫn trụ vững giữa cuộc đời, bà vẫn bươn trải kiếm sống, bà vẫn chống chọi với tất cả:
“Bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn”.
Đó là một nét vẽ rất thực, rất đậm trong hình tượng về người bà, đó cũng là hình ảnh người bà rất gần gũi với mỗi gia đình Việt Nam chúng ta – những người mẹ anh hùng Việt Nam trong những năm tháng kháng chiến.
Đoạn thơ cuối giãi bày nỗi xúc động của đứa cháu khi đứng trước ngôi mộ bà ngoại:
“Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
Dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi
Khi tôi biết thương bà đã muộn
Bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi”.
Sự kết hợp hài hoà giữa cảm xúc và tính triết lí của nhà thơ Nguyễn Duy đã tạo nên sự rung cảm sâu xa trong vần thơ. Dòng sông xưa mà tác giả nói đến là sông Chu, sông Mã, sông Đò Lè, nơi đã diễn ra những năm dài chiến tranh loạn lạc. Giờ đây, quê hương đất nước thanh bình, câu thơ “dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi” mang hàm nghĩa về cuộc đời bể dâu, về sự thay đổi của quê hương xứ sở.
Câu cuối bài thơ “bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi” cũng mang ý vị triết lí về kiếp người hữu hạn trong dòng chảy vô cùng của thời gian, ý thơ man mác buồn, làm ta liên tưởng đến câu thơ của Nguyễn Gia Thiều trong “Cung oán ngâm khúc”:
“Trăm năm còn có gì đâu
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì”.
Bà ngoại đã mất, nhưng tình thương và sự tần tảo của bà vẫn còn đọng lại trong ký ức tuổi thơ của cháu.
“Đò Lèn” là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời của Nguyễn Duy, một bông hoa tô đẹp hình tượng người bà trong mỗi gia đình Việt Nam. Bài thơ này đã khéo léo sử dụng hình ảnh của hơn mười địa danh để tăng thêm sự đẹp và sâu sắc cho thông điệp chính của tác phẩm: tình yêu vô bờ bến đối với người bà, gia đình, và quê hương.
“Đò Lèn” là một món quà cảm động từ nhà thơ dành cho kí ức tuổi thơ của người lính. Bài thơ này giúp người đọc nhớ lại những kí ức đẹp của thời thơ ấu, nơi mà tình cảm gia đình và quê hương đóng vai trò quan trọng. Cảm nhận sâu sắc về tình yêu của người bà, Nguyễn Duy đã tạo ra một trang thơ đầy xúc cảm và ý nghĩa.
bà kính yêu trong mỗi gia đình Việt Nam chúng ta. Hơn mười địa danh được nhà thơ nhắc đến đã làm cho ý nghĩa bài thơ thêm đẹp và sâu sắc: tình yêu bà, yêu gia đình gắn liền với tình yêu quê hương tha thiết. “Đò Lèn” là một trang thơ cảm động về kí ức tuổi thơ của người lính.